Một vài suy nghĩ về chương trình, sách giáo khoa, người thầy
Chương trình và sách giáo khoa của một đất nước là những văn kiện nền tảng, chính thức, nhằm mục đích hình thành nhân cách cả một thế hệ trong giai đoạn nó còn giá trị sử dụng. Bởi thế, chương trình, sách giáo khoa, người thầy, phải đạt được tối thiểu ba điều sau:
Ảnh minh họa/INT
1. Phải hình thành niềm tự hào dân tộc cho thế hệ học sinh. Ngay từ khi là học sinh cho đến trưởng thành, lúc nào các em cũng tự hào rằng mình là người Việt Nam. Dù sống ở đâu, làm công việc gì cũng luôn nghĩ mình phải thể hiện “chất” Việt Nam trong cuộc sống của mình.
Tháng 9/1984 tôi sang làm chuyên gia giáo dục ở Algérie. Gặp tôi ở phố, người ta hỏi: Ông là người Nhật? Tôi trả lời: Việt Nam. Họ vây quanh tôi giơ ngón tay cái trước mặt, cùng nói to: “Général Giap – Điên Biên Phu”. Nhân kỷ niệm 30 năm ngày khởi nghĩa, 1/11/1984, bạn bè trong trường đến chơi kể rằng, mở đầu Lễ kỷ niệm, Đài truyền hình Algérie đã chiếu phim Điện Biên Phủ rồi nói: “Chính nhờ chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam mà nhân dân Algérie chúng tôi tin rằng, chúng tôi đánh được Pháp”. Suốt thời gian dạy học ở Algérie, tôi được chào đón với tình cảm trìu mến.
Chương trình, sách giáo khoa phải tạo điều kiện để người thầy từng bước hình thành niềm tự hào là người Việt Nam cho học sinh, và các em học sinh luôn ý thức mình là người Việt Nam ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào.
2. Nội dung chương trình, sách giáo khoa phải chứa đựng các yếu tố giúp người dạy hình thành trong học sinh một năng lực tư duy.
Trình độ tư duy là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa con người với nhau.
Năm 1956 tôi học Khoa Toán, Trường Đại học Sư phạm. Tôi thường tranh thủ sang nghe Giáo sư Đặng Thai Mai giảng bài cho sinh viên Khoa Văn. Ông thường đứng giữa bục giảng, hai tay xoa xoa viên phấn, nói rất nhỏ. Lớp học im phăng phắc nghe ông giảng, vì ông nói những điều suy nghĩ của riêng ông, nói cách khác ông giảng những điều tư duy của ông.
Năng lực tư duy tạo nên sự khác biệt giữa con người.
Khi nói tác giả A là tiến sĩ khoa học thì ta hiểu rằng tác giả A thuộc vào lớp người sáng tạo. Năm 1956, tôi nghe thầy Nguyễn Cảnh Toàn kể rằng, thầy gửi luận văn viết về một công trình Toán để xin một trường đại học của Liên Xô đánh giá. Ba tháng sau, thầy nhận được công văn trả lời rằng công trình nghiên cứu của thầy đã giải quyết ở thế kỷ 19.
Mặc dù thầy Nguyễn Cảnh Toàn chưa đọc công trình này, nhưng kết quả nghiên cứu của thầy coi là không có giá trị về mặt đóng góp khoa học cho môn Toán. Thầy Nguyễn Cảnh Toàn tìm một hướng đi mới, mà sau này thầy đã trở thành “Người phát minh Hình học siêu phi Ơclit”, được Trung tâm Tiểu sử quốc tế Hoa Kỳ tôn vinh vào bộ phận tinh hoa gồm 500 người.
3. Phải hướng các thế hệ học sinh vào tình yêu con người.
Tình yêu con người là nền móng cho sự bền vững và phát triển của xã hội.
Video đang HOT
Những nhà khoa học cống hiến cả đời mình nhằm kéo dài, mở rộng thời gian sống cho con người. Nhà bác học Louise Pasteur đã ngồi hàng ngày trước cũi con chó dại. Ông thấy con chó dại trước khi chết, vẻ mặt nó bần thần, nôn nao, lo lắng, ông cho rằng virus dại nằm ở não con chó. Ông đã dự đoán đúng và sau đó ông tìm ra vắc-xin cứu những người bị chó dại cắn thoát chết. Đó là tình yêu con người.
Những nhà hoạt động chính trị chân chính trăn trở về cuộc sống và hạnh phúc của xã hội hôm nay và mai sau. Đó là tình yêu con người.
Những nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật quan tâm đến số phận của những người khác. Đó là tình yêu con người.
Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn nói tại Hội trường Trường Đại học Sư phạm năm 1961: “Càng yêu người bao nhiêu càng yêu nghề bấy nhiêu”.
Thời gian tới, một thế hệ bước vào chặng đường giáo dục mới. Chương trình học đã được xác định. Một số bộ sách giáo khoa đã được thẩm định. Vấn đề còn lại là các thế hệ người thầy sẽ tiếp nối nhau dẫn dắt lớp trẻ, từ lúc vào trường cho đến lúc vào đời, để lớp trẻ trở thành những con người, bàn tay có sức mạnh, không gian hiểu biết được mở rộng, tâm hồn đằm thắm tình yêu thương, góp phần xây dựng xã hội công bằng, văn minh, giàu mạnh.
Vũ Hoàng Lâm
Theo giaoducthoidai
Kiến thức trong sách toán hiện hành quá tải đã là gì so với dạy thực tế?
Ngành giáo dục vẫn ra đề thi bậc tiểu học theo Thông tư 22 bám theo ma trận đề theo 4 mức độ như hiện nay thì học sinh tiểu học còn phải điên đầu khi học toán
Câu nói: "Giáo dục toán học ở phổ thông hiện hành, nhất là với tiểu học, là quá tải và rất nặng.
Ông Đỗ Đức Thái (người cầm mic) cho rằng, sách Toán hiện hành ở bậc phổ thông, đặc biệt với tiểu học, quá nặng. (Ảnh: Thùy Linh)
Nó khó đến mức phải là những giáo sư toán học có trình độ tốt mới hiểu hết được" của ông Đỗ Đức Thái, Tổng chủ biên sách giáo khoa Toán 1 theo Chương trình giáo dục phổ thông mới làm không ít người bức xúc và bàng hoàng.
Hóa ra suốt bao nhiêu năm nay, con trẻ phải chịu áp lực học hành kinh khủng đến thế sao?
Suốt bao nhiêu năm nay, trẻ không phải học mà là đang bị hành đến mất hết tuổi thơ vậy sao?
Nhưng vẫn không ít người lại tỏ ra thắc mắc, nghi ngờ: "Vậy tại sao, bao nhiêu năm nay ít khi chúng tôi nghe nói đến việc chương trình toán hiện hành quá tải với học sinh đến như vậy? (đương nhiên là những phát ngôn chính thống).
Và, quá nặng như thế (đến mức phải là những giáo sư toán học có trình độ tốt mới hiểu hết được, còn trình độ trung bình và khá thì đừng mơ nhé) nhưng tại sao học sinh ở các trường tiểu học năm nào cũng lên lớp gần 100%?
Tại sao chương trình khó đến như vậy nhưng học sinh lại ít bị thi lại mà vẫn lên lớp thẳng đều đều?...Học sinh của mình giỏi đến thế cả hay sao? (còn giỏi hơn cả những giáo sư nữa kia đấy(!).
Nghịch lý ở đâu?
Nếu xem lại các biên bản, các ý kiến nhận xét của giáo viên, của chuyên viên, của các báo cáo viên về chương trình sách giáo khoa hiện hành trước đây có lẽ cũng không thể tìm đâu ra những nhận xét về sự quá tải của chương trình đến mức như thế.
Từ ngày thay sách (chương trình cũ và chương trình hiện hành), giáo viên chúng tôi cũng đã dạy thử nghiệm, dạy thao giảng trường, liên trường, cụm trường biết bao nhiêu lần.
Dạy để lấy ý kiến góp ý về ưu điểm, về những tồn tại để chuyển lên cấp trên xem xét, có ý kiến điều chỉnh ngay từ khi chương trình cũ và chương trình hiện hành đưa vào áp dụng nhưng vẫn chỉ luôn là những câu nói làm đẹp lòng cấp trên: "Nội dung kiến thức phù hợp với mọi đối tượng học sinh...".
Vì sao mãi đến ngày hôm nay, công luận mới được nghe câu nói chương trình không chỉ nặng mà là quá nặng được thốt ra từ một trong những chuyên gia của ngành giáo dục?
Phải chăng, sự thật đã được che giấu nay mới được phanh phui? Và nói ra lúc này để nhằm mục đích gì?
Sao không nói ra cách đây sớm hơn khi mới đưa chương trình vào áp dụng để những đứa trẻ thơ khỏi bị đày ải vì việc học như thế?
Phản ứng của độc giả
Có bạn đọc đã phải thốt lên: "Hỡi ông Đỗ Đức Thái? Cho dù thế nào thì ông cũng đừng chê bai những gì đã tồn tại 16 năm nay. Biết đâu sách của ông chỉ vài năm sau cũng bị chê nặng hơn thì sao?"
"Cứ mỗi lần thay sách giáo khoa là lần sau luôn tìm cách chê, nói xấu ban biên tập lần trước... Lần sau có đổi mới nữa.... Ông cũng bị người sau chê....".
"Nếu soạn sách Toán như thế, với một khối lượng kiến thức lớn và cao thì nỗi sợ Toán vẫn còn ám ảnh các thế hệ học sinh! Có lẽ mời mấy Giáo sư, Tiến sĩ soạn sách cho con cháu mình học trước.
Dạy mẫu cho giáo viên xem may ra sẽ nhận được nhiều góp ý bổ ích! Một giờ học toán là một giờ hãi hùng thì không nên!"
Thực tế giảng dạy thế nào?
Những kiến thức toán trong chương trình hiện hành nói là vừa sức cũng không phải vừa sức đối với nhiều đối tượng học sinh.
Nhưng nói là quá tải đến mức như ông Đỗ Đức Thái phát biểu thì chưa đến mức đó. Trong thực tế, những kiến thức ấy đã là gì so với những gì nhiều trường học hiện nay đang dạy cho học sinh?
Theo chỉ đạo chuyên môn, những kiến thức toán được trình bày trong sách giáo khoa chỉ là những kiến thức cơ bản mọi học sinh phải nắm được.
Thế nên, giáo viên phải dạy nâng cao cho học sinh khá giỏi. Cách dạy được chirv đạo là vừa dạy lồng trong các tiết học chính khó môn Toán, vừa dạy riêng ở các tiết học bổ sung.
Thế là nhiều trường học lấy kiến thức trong các cuốn sách dành cho học sinh giỏi, Violympic để dạy cho các em. Và trong các bài kiểm tra, đề thi những bài toán khó như thế liên tục xuất hiện.
Để học sinh làm được thì hằng ngày lên lớp, giáo viên phải giảng, hướng dẫn tỉ mĩ chi tiết, cho các em làm đi làm lại đến quen.
Làm ngày này, qua ngày khác đến thuộc lòng, nhuần nhuyễn và khi gặp lại những dạng toán ấy phần lớn học sinh chỉ làm theo thói quen đã được luyện tập chứ chẳng mấy em hiểu được căn nguyên vì sao phải làm như thế?
Điều này mới thật sự ám ảnh học sinh chứ không phải những kiến thức được trình bày trong sách giáo khoa như hiện nay.
Chương trình mới có còn tình trạng này không?
Môn Toán ở chương trình mới đang được các nhà biên tập sách quảng cáo là vừa sức, hấp dẫn, khơi gợi tình yêu toán học với học sinh.
Nhưng nếu ngành giáo dục của chúng ta vẫn giữ kiểu ra đề thi bậc tiểu học theo Thông tư 22 bám theo ma trận đề theo 4 mức độ (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp, vận dụng cao) như hiện nay thì học sinh tiểu học còn phải điên đầu khi học toán.
Và chắc chắn đến trường vẫn chỉ học toán và học toán miệt mài như hiện nay.
Phan Tuyết
Theo giaoduc.net.vn
Liệu Bộ GDĐT tiếp tục trễ hẹn trong công bố 6 bản SGK tiếng Anh lớp 1 mới? Sau hơn 1 tháng kể từ ngày Bộ GDĐT công bố 32/38 SGK "Đạt" thẩm định sẽ được sử dụng trong năm học đầu tiên của Chương trình giáo dục phổ thông 2018, 6 bộ SGK tiếng Anh còn lại vẫn chưa được công khai. Dư luận hiện đang quan tâm đến những cuốn SGK lớp 1 sẽ được sử dụng trong chương...