Một cử nhân đại học đột ngột xuất gia tu hành
Sau khi tốt nghiệp khoa Hán Nôm (ĐH KHXH&NV Hà Nội), Phạm Văn Đức đã xuống tóc quy y cửa Phật.
Bỏ nghiệp, từ thân, quyết vào chùa
Sau mấy lần hẹn, tôi cũng đã gặp được thầy tiểu Phạm Văn Đức với pháp danh Thích Minh Hạnh tại chùa Hưng Long (thôn Đông Trù, xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì, Hà Nội) – nơi cậu đang tu hành. Đức tiếp tôi trong bộ áo nâu sòng và cái chào vái tay của người nhà chùa như đánh dấu một con người hoàn toàn khác trong vẻ ngoài của cậu.
Hiện tại, Đức đang tu tại chùa Hưng Long (Đông Mỹ, Hà Nội).
Một chàng sinh viên sôi nổi, thích tham gia các hoạt động tình nguyện mới đây thôi, nay đã thành một nhà sư nơi cửa thiền. Ngày Đức từ thân vào chùa là một cú sốc cho cả gia đình, nhưng với chàng trai trẻ thì tâm đã nguyện, lòng chẳng còn vương vấn trần tục.
Sinh ra trong một gia đình nông dân ở Vũ Thư, Thái Bình, từ nhỏ, Đức đã chịu ảnh hưởng từ gia đình bên ngoại có truyền thống xuất gia (em ông ngoại, bác ruột của mẹ đều đã đi tu). Đức từng ở chùa năm 10 tuổi, chính vì vậy mà cảnh sinh hoạt, không gian trong chùa không còn xa lạ với cậu.
Trong quá trình học tập, Đức cũng tự tìm hiểu cho mình những kiến thức về phật học, từ đó mà tư tưởng tu hành cứ lớn dần lên. Thi đỗ đại học năm 2009, Đức vào ngành Hán Nôm – ĐH KHXH&NV Hà Nội – một ngành học liên quan đến chữ Hán lại ít nhiều tác động đến tư tưởng của chàng cử nhân 23 tuổi này.
Được gia đình, dòng họ kỳ vọng vào một tương lai sáng lạn, ngay cả bố của Đức cũng đã sẵn sàng chuẩn bị cho cậu một công việc tốt sau khi tốt nghiệp đại học, nhưng cuối cùng không ai ngờ Đức lại quyết định bỏ lại tất cả vào chùa đi tu.
Video đang HOT
Ban đầu tiếp xúc, tôi vẫn còn hơi e ngại bởi sợ phạm đến những quy tắc của người tu hành. Nhưng sau những câu chuyện trải lòng của Đức, tôi đã tìm lại được cảm giác trò chuyện thân mật. Giờ nhìn Đức trầm tư hơn trước, duy chỉ có cung cách nói chuyện là vẫn giữ được sự hoạt ngôn, chắc chắn, hiểu biết vốn có. Cậu cũng không ngại nói về quyết định, những mâu thuẫn nội tâm cũng như những chuyện hỉ, nộ khi tu hành, về điều mà người tu hành cần có, đó là đức tin, là chữ tâm trong người.
Trong xã hội vẫn thường có quan niệm về những người đang có cuộc sống bình thường đi tu hành là do gặp phải biến cố lớn trong cuộc đời, ly tan cửa nhà, sự nghiệp đổ vỡ, trắc trở trong tình duyên… Chính vì vậy mà đã có không ít người nghĩ tới những nguyên nhân tiêu cực để lý giải cho việc Đức xuất gia, nhất là tại làng quê cậu sống không tránh khỏi chuyện rèm pha.
Đức là con trưởng trong gia đình và cũng là đích tôn của dòng họ – người sẽ gánh vác trách nhiệm trưởng họ trong tương lai, sau Đức còn 2 em gái. Chính vì vậy mà Đức nhận sự phản đối kịch liệt từ phía gia đình, đặc biệt là bố của cậu, thậm chí ông còn đòi… từ con.
Theo lý giải của Đức, đi tu không phải là sự mất mát về con người, cũng không phải một chuyện gì ghê gớm, nhưng quan niệm của gia đình thì khác, nhất là đối với một gia đình nông thôn gia giáo như dòng họ của Đức. Bởi thế mới có cuộc đấu tranh vô cùng lớn trong nội tâm nhà sư trẻ đứng giữa hai dòng nước, chọn chữ hiếu hay đạo.
Đức tâm sự đã có những lúc nghĩ thương cha xót mẹ, nhớ gia đình, đã có lúc đấu tranh tâm lý đến cao trào để lựa chọn, nhưng rồi cái nghiệp nó vẫn thắng. Với gia đình, khi đồng ý ký vào tờ giấy cam kết giao cúng con cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam cũng đồng nghĩa với việc… mất con, bởi lẽ Đức sẽ chỉ về nhà lo hậu sự khi “cha già mẹ héo”, từ nay sẽ cắt ái từ thân. Một quyết định không mấy dễ dàng với chàng trai 9X, một người trẻ mới bước vào đời.
Vì duyên chọn 3 tấc áo nâu sòng
Phạm Văn Đức (trái) khi còn là sinh viên.
Đức tâm tình, quyết định đi tu của cậu đã được lên kế hoạch trước đó một năm khi vẫn còn đang là sinh viên, mọi sự đã được chuẩn bị. Duyên đến thì như một quy luật tự nhiên ở đời. Khi lựa chọn chữ đạo, ở một góc độ nào đó Đức bị người đời nhìn nhận là bất hiếu khi từ bỏ gia đình đã có công nuôi nấng, chăm sóc, cho ăn học nhưng lại từ thân đi tu, không có trách nhiệm với gia đình, phụng dưỡng cha mẹ về già, bỏ hương hỏa tổ tiên.
Chính Đức cũng đã suy nghĩ rất nhiều về chữ hiếu trước khi quyết định, bởi đã là còn người không ai là không có tình cảm với gia đình, với đấng sinh thành. Để chọn cửa chùa làm nơi dung thân, chàng trai trẻ đã được cái duyên thấm trọn.
Dân gian quan niệm số mệnh con người do con tạo xoay vần, do thiên cơ định sẵn. Quy y cửa Phật với Đức cũng như một cái duyên đã định. Trong xã hội hiện đại, chuyện người trẻ đi tu không hiếm nhưng chuyện cử nhân đi tu lại là điều đáng quan tâm. Người ta sẽ đặt ra một câu hỏi, môi trường đại học phải chăng khiến con người ta dễ giác ngộ? Đó là câu chuyện của những người trí thức trẻ ngộ đạo, lại có cả kiến thức được trau rồi qua sách vở và đến với đạo theo cái duyên như trường hợp của Đức.
Chính duyên gặp được người thầy của mình trong lần đi thực tập dập văn bia tại chùa Sùng Phúc (Từ Liêm – Hà Nội) cũng là động lực để Đức quyết tâm đến với cửa phật hơn.
Đức chia sẻ, sau khi gặp thầy của mình là Đại đức Thích Minh Tiến trong chuyến thực tập, được thầy chăm lo, tận tình giúp đỡ, lại đúng cái duyên khi thầy không chỉ chuyên tâm vào việc cúng bái, mà còn có học vấn và làm trên Trung ương giáo hội. Đặc biệt, thông tin Đại đức cũng xuất gia đi tu sau khi tốt nghiệp Đại học Ngoại ngữ đã giúp Đức có thêm quyết tâm đưa ra quyết định lớn trong cuộc đời mình. Như một cuộc đời như được lặp lại, gặp một cử nhân đi tu bái làm thầy, đến đây, cái duyên coi như đã đủ vẹn toàn.
Khi duyên đã đến, khi tâm hướng Phật đã trọn, quyết định của Đức được đưa ra khá dứt khoát với một tâm lý vững vàng. Đức cho biết, những kiến thức sau 4 năm đại học vẫn sẽ được cậu sử dụng trong quá trình tu tập. Bởi chữ Hán thông, có kiến thức về Phật học sẽ giúp Đức trong quá trình học tập các sách về Phật, sau này có thể làm giảng sư trên Học viện Phật giáo giúp các tăng, ni. Đây là một điều đáng quý trong nghiệp đi tu của những người trẻ. Thành quả của Phật giáo Việt Nam ở những thế hệ này không chỉ là cái tâm mà còn là những nhà sư tri thức, uyên thâm Phật học những giáo lý kinh điển của Đạo Phật.
Nói về những mối quan hệ bên ngoài, nhà sư trẻ này tâm sự, cái duyên của mình với bạn bè, người thân chỉ đến vậy nên không có gì đáng tiếc. Thời gian theo nghiệp tu hành, Đức vẫn có thể gặp những người thân, bạn bè, vẫn có thể giúp đỡ họ trong phạm vi cho phép. Nhưng dù sao, giờ đây Đức cũng là người nhà chùa, ở một cuộc sống khác xa với đời thường trước đây. Người tu hành có những giới luật mà nhất nhất toàn tâm phải theo, chính vì vậy mà mỗi nhất cử nhất động đều thuộc sự quản lý của nhà chùa cũng như sư thầy.
Đức tu theo phái Đại thừa, Tịnh độ Mật tông (niệm phật là chủ yếu, thiền là phụ), không sát sinh, không ăn mặn. Hàng ngày Đức dậy từ 4h sáng chắp táp, niệm phật, làm công việc trong chùa, đọc sách, tụng kinh… 5h chiều đóng cổng chùa, không liên quan gì đến thế giới bên ngoài. Nghiệp tu bắt đầu từ đây với chàng cử nhân trẻ.
Theo NLD
Đại lễ tưởng niệm Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn
Hôm qua, 3-12, UBND tỉnh Quảng Ninh phối hợp cùng Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam long trọng tổ chức Đại lễ tưởng niệm 705 năm ngày Đức vua- Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn (1308-2013). Đại lễ tưởng niệm có sự tham dự của Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan cùng các Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Phạm Bình Minh; Bộ trưởng Bộ Công an, Đại tướng Trần Đại Quang, cùng hàng nghìn tăng ni, phật tử hành hương về nơi non thiêng, tưởng niệm Đức Phật hoàng.
Tượng Phật hoàng trên đỉnh An Kỳ Sinh
Điểm nhấn của Đại lễ tưởng niệm Phật hoàng Trần Nhân Tông năm nay là lễ an vị bảo tượng Phật hoàng nặng 150 tấn, cao 15m, được đúc liền khối trên đỉnh An Kỳ Sinh. Lễ an vị được thực hiện theo nghi thức truyền thống. Phát biểu tại buổi lễ, Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam bày tỏ lòng kính trọng và ngưỡng mộ vị minh quân đã vượt lên đỉnh vinh quang, rời bỏ ngai vàng, tu hành và hóa Phật. Dòng thiền Trúc Lâm do Đức vua sáng lập xuất phát vì lợi ích quốc gia, để muôn dân no ấm sẽ mãi trường tồn cũng dân tộc. Phó Thủ tướng cũng khẳng định, Đại lễ tưởng niệm và an vị Phật hoàng Trần Nhân Tông thể hiện chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước về tôn trọng tự do tôn giáo, trong đó có Phật giáo; đồng thời mong muốn các vị chức sắc Phật giáo cùng phật tử sẽ tiếp tục phát huy những giá trị tích cực của thiền phái Trúc Lâm trong giai đoạn mới.
Trước đó, ngày 2-12, tại khu di tích danh thắng Yên Tử cũng đã diễn ra Hội thảo "Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử và công tác quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích Yên Tử hiện nay". Cuộc hội thảo nhằm tiếp tục hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận Quần thể Di sản văn hóa Yên Tử là Di sản thế giới. Không chỉ tập trung bàn về những giá trị tích cực của tư tưởng, đạo đức, văn hóa, lối sống Phật giáo Yên Tử trong sự nghiệp phát triển đất nước; và công các quy hoạch và phát triển những giá trị của Di tích Quốc gia, đặc biệt Yên Tử trong giai đoạn mới. Hội thảo lần này còn đưa ra nhiều kết quả nghiên cứu mới về triều Trần, Phật giáo thời Trần cùng những nhân vật tiêu biểu thời Trần đã có nhiều đóng góp cho dân tộc.
Cùng với việc hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO, tỉnh Quảng Ninh cũng đang triển khai thực hiện "Đề án mở rộng và phát triển khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử" đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Với quy hoạch này Di tích Quốc gia đặc biệt Yên Tử sẽ được mở rộng tới hơn 9.000ha (gấp 3 lần diện tích hiện tại) kết nối tỉnh Quảng Ninh với tỉnh Bắc Giang, bao gồm nhiều hệ thống am, chùa, tháp gắn với chặng đường tu hành của Phật hoàng Trần Nhân Tông.
Cũng trong Đại lễ kỷ niệm 705 ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông nhập Niết bàn, Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp cùng Công ty Hữu Nghị Á Châu tổ chức trưng bày 705 trống đồng và 705 chữ Tâm bằng đồng dát vàng tại khu di tích danh thắng Yên Tử- Quảng Ninh. Đây là những vật phẩm quý, mừng lễ khánh thành bảo tượng Phật hoàng. Song song với trưng bày, còn có Lễ cầu an, cầu phú, nhập linh, lễ trao tặng chữ Tâm và trống đồng.
Theo ANTD
Kiếp tu hành lầm lạc của "sư thầy" 9X Để được trở thành trụ trì chùa, sư thầy Thích Trí Nghĩa đã nhờ người làm giả bằng tốt nghiệp trung học phổ thông và bằng trung cấp Phật học. Quá trình tu hành, sinh hoạt tại đây, vị trụ trì 9X này còn có quan hệ bất chính với một phụ nữ đã có chồng, khi người này sinh con, sư thầy...