Mối lo thật sự từ phong trào luyện chữ đẹp
Luyện chữ đẹp khi đó không chỉ là phong trào – tự phát hoặc có chỉ đạo – mà đã do một triết lý – có gốc rễ rất sâu ở giới quản lý chi phối. Đây mới là mối lo thật sự” – độc giả Lãnh Nguyên nêu ý kiến khi tham gia diễn đàn “ viết chữ đẹp: thế nào là đủ”?
Câu hỏi thời sự
Đi học, biết chữ, là để đọc lên, viết ra. Nhưng viết bằng bút hay bằng máy tính? Câu hỏi này chưa cần trả lời ngay.
Còn câu hỏi thời sự là: Bọn trẻ hiện đang tập viết (kể cả đang “luyện chữ” để tạo “nết người”); vậy 15 hay 20 năm nữa các cháu sẽ ứng dụng ra sao cho bõ cái công khổ luyện hôm nay?
Dù thờ ơ hay day dứt với câu hỏi, chúng ta vẫn phải xuất phát từ thực tế đất nước. Nước Việt Nam ta vẫn là nước nghèo, chưa thể so sánh với Mỹ, Anh hay Đức…, không thể quá sốt ruột khi thấy những nước này bắt đầu lộ trình thay hẳn chữ viết tay kiểu uốn lượn, mềm mại, bằng thứ chữ “giống chữ in” – để có thể viết nhanh và dễ đọc (thì giờ tập viết dôi ra sẽ dành cho kỹ năng sử dụng bàn phím). Nói khác, vẫn phải tạm để bọn trẻ nước ta tập viết như hiện nay. Vấn đề là chúng cần tập viết tới mức nào và còn kéo dài bao lâu nữa?
Dẫu sao, các bậc cha mẹ – nếu định lo xa cho con cái – bắt buộc phải tìm câu trả lời cho câu hỏi trên. Và phải có những chữ “nếu” để cân nhắc các trường hợp, vì ai mà dám chắc con cái mình sẽ làm nghề gì sau này?. Nhưng dù “nếu” gì đi nữa, thì 15 hay 20 năm tới máy tính cũng phổ biến, dễ mua và rẻ gấp 5 hay 10 lần bây giờ – nhất là khi so với ngân quỹ gia đình thời đó. Vấn đề là khi đó, con cái chúng ta (ngoài năng lực viết tay), liệu đã quen dùng cả 10 ngón tay để bắt cái bàn phím phải dốc hết năng lực hầu hạ mình hay chưa?. Xin nhớ, bọn trẻ có khả năng mau thuộc (nhanh hơn người lớn) cách dùng cả 10 ngón tay để gõ chữ. Lợi thế của tuổi trẻ là vậy. Chưa cần nói, nếu sử dụng thành thạo bàn phím, con cái chúng ta còn đủ sức tận dụng năng lực vô hạn của chiếc máy tính tương lai – tuy rất gọn nhẹ, rẻ tiền, nhưng có sức mạnh gấp bội so với những máy tốt nhất hôm nay.
Luyện chữ đẹp thế nào là đủ với học sinh tiểu học (Ảnh minh họa)
Câu trả lời liệu đã dứt khoát?
Chưa thể biết nghề nghiệp tương lai của một học sinh tiểu học, ta vẫn có thể dùng “nếu” để quyết định con cái mình sẽ đầu tư công sức tập viết “chữ đẹp” tới mức nào…
- Nếu sau này đứa con may mắn trở thành người phải viết những bản thảo hàng trăm hoặc ngàn trang để xuất bản, thì viết tay không thể đắc dụng. Mà càng nắn nót để viết cho đẹp sẽ càng tốn thì giờ, vô bổ. Chẳng qua, đó chỉ là lao động chân tay. Nó lạm vào thì giờ tư duy sáng tạo.
Video đang HOT
- Nếu cha mẹ hy vọng đứa trẻ sẽ trở thành nhà thư pháp, sống bằng nghề (không phải nghiệp dư, hay thú vui)? Trường hợp này, càng cần sớm đánh giá nghiêm chính năng khiếu đứa con mình. Mà chỉ năng khiếu cũng vẫn không đủ, còn phải biết chắc rằng con mình có một năng lực thiên phú, thiên bẩm (trời cho) mới dám quyết định. Chữ thư pháp không chỉ đẹp, còn phải mỹ thuật, bay bổng, toát lên vẻ đẹp cao thượng… Bán chữ kiếm sống thời nay không dễ…
- Nếu khả năng viết chỉ được dùng để ghi ra mảnh giấy những việc cần làm trong ngày (lắm việc tới mức không nhớ nổi), hoặc danh sách thức ăn cần mua cho bữa tiệc sinh nhật, cho mâm cỗ ngày giỗ… (loại này, mỗi năm sài vài lần là nhiều)… Đôi khi đó chỉ là mảnh giấy cài lên cánh cửa để dặn dò đứa con vài điều phải làm… Loại chữ cho việc này cần luyện tới mức nào?
- Để viết đơn xin việc? Liệu khi đó nhà tuyển dụng có còn dựa vào chữ viết để suy ra “nết người” – như ta nghĩ hôm nay? Nếu chỉ nhờ “chữ tốt” mà trở nên thành thạo trong việc “viết đơn xin việc” thì thật… bất hạnh. Năng lực ra sao mà con người này cứ phải viết hết đơn này tới đơn khác – tới mức thành thạo?
- Xin các bậc cha mẹ cứ “nếu” tiếp, để có quyết định phù hợp cho đứa con mình.Và, cái tiêu chuẩn “đủ nét, đủ dấu và viết nhanh” (như có người đề xuất) có phù hợp cho số học sinh đông đúc tới nhiều triệu?.
Cân bằng suy xét, không nghiêng sang một cực
Không chấp nhận luyện chữ có nghĩa là… mặc kệ cho con em chúng ta viết chữ xấu (!). Sao có thể suy nghĩ thiếu cân bằng như vậy?. Thế giới muôn màu, sao cứ tự ý đề ra quy tắc cực đoan: “nếu không trắng, tức là đen” (?!).
Mục tiêu “cứng” của môn Tập Viết là thanh toán chữ xấu cho cả lớp, cả trường. Thầy cô có nghĩa vụ như vậy, không châm chước. Còn “viết đẹp” là mục tiêu “mềm”, không thể dành cho cả lớp, cả trường. Và không thuộc trách nhiệm của thầy cô.
Nói cho công bằng, việc đầu tư thêm công sức và thời gian để “luyện chữ” (ngoài thời gian quy định “tập viết” trong chính khóa) là quyền riêng tư, không ai có thể cấm đoán. Những người có năng khiếu cứ việc lập câu lạc bộ, cứ luyện, cứ thi. Và có giải. Bên cạnh nó là những câu lạc bộ Toán, Văn, Sử, Địa… Rất đáng khuyến khích.Nhưng cũng không ai được phép cưỡng ép các cháu luyện chữ, buộc các cháu phải tham gia câu lạc bộ, này hay khác.
Có một số thầy cô thừa sức luyện chữ đẹp cho học sinh lớp mình; nhưng cũng có nhiều thầy cô không đủ sức làm việc đó. Đây là việc tùy tâm, không ai dám bắt buộc các thầy cô. Nhưng tất thảy mọi thầy cô đều phải có bốn phận (trách nhiệm) dạy cho 100% học sinh lớp mình tập viết chữ không xấu – tức là đủ nét, đủ dấu, dù viết nhanh. Xin hãy cân nhắc giữa gây dựng “phong trào chữ đẹp” với “phong trào thanh toán chữ xấu”. Giá mà… làm được cả hai thì còn gì bằng. Vấn đề là nếu chỉ làm được một, thì sao? Chọn cái nào?
Cái gì làm chúng ta thật sự lo lắng
Đã có nhiều trường hợp (báo chí nêu) thầy cô động viên (bắt buộc?) cả lớp dự thi “chữ đẹp”, tới mức tháo vở, xé trang (để thay những tờ viết chưa đẹp hoặc lỡ dây bẩn)… và cháu chữ đẹp phải “tương trợ” (viết thay) cháu viết chưa đẹp… Tuy đây là hiện tượng đáng lo – triệu chứng lồ lộ của “bệnh thành tích”; nhưng còn đáng lo hơn nữa, nếu người quản lý dùng quyền lực đặt ra những kỳ thi “chữ đẹp”, từ cấp trường, cấp quận-huyện, tới tỉnh và tận trung ương – nghĩa là đã hợp pháp hóa và pháp lệnh hóa nó. Đã có cháu được giải toàn quốc về chữ đẹp (!). Luyện chữ đẹp khi đó không chỉ là phong trào – tự phát hoặc có chỉ đạo – mà đã do một triết lý – có gốc rễ rất sâu ở giới quản lý chi phối. Đây mới là mối lo thật sự.
Ta thương các cụ hay các cụ thương ta?
- Cách đây 50 năm, ai có cái “ bút máy” là oai lắm, vì không cần chấm vào lọ mực mà vẫn viết liên tục suốt buổi học. Chỉ riêng việc gọi cái bút (khá thô sơ) này là “máy” đã đủ nói lên nhiều điều. Thật đáng ái ngại cho trình độ dân trí của các cụ thời đó. Vậy thì hôm nay, chẳng cần đợi 50 năm, mà chỉ cần 10 năm nữa thôi, ta sẽ thấy những máy tính “hiện đại” của năm 2012 sẽ không còn hiện đại nữa. Ấy thế mà chúng ta vẫn say sưa khuyến khích con cái luyện chữ – giống như cái thời chữ Hán còn độc tôn. Mà không phải chỉ luyện cho cháu nào có năng khiếu, mà còn muốn… luyện tất (!). Liệu thế hệ sau nhìn lại ta, họ có thương ta?
- Cách đây cả trăm năm (thời Đông Kinh Nghĩa Thục, 1906) các bậc tiền bối đã đưa ra phương châm Thực Học – Thực Nghiệp (học “thật”, học những gì “thiết thực” – để có một nghề “đúng nghĩa”). Vậy, luyện chữ gian khổ đến vậy, có thiết thực?
Chúng ta đánh giá người xưa là thiển cận hay viễn kiến? Các cụ có bảo thủ hơn chúng ta hôm nay? Chúng ta thương cảm người xưa, hay ngược lại: các cụ trách chúng ta?
Theo Lãnh Nguyên (Vietnamnet)
Viết chữ đẹp đã lỗi thời?
Theo GS Nguyễn Ngọc Lanh, chuyện học sinh cả lớp, cả trường, cả huyện... phải rầm rộ đi thi "chữ đẹp" thể hiện triết lý rất lỗi thời.
Tại sao trẻ em Việt Nam cứ phải vung phí tuổi xuân vào những cuộc đua - tuy rất bổ ích cho "thành tích" của người có quyền, nhưng - vô bổ đối với sự nghiệp tương lai của chính các em?
Các bài luyện và các bài thi cứ na ná như nhau về nét chữ.
Không có chữ, phải đi mượn; lại mượn phải thứ chữ rất khó viết
Ba ngàn năm không có chữ, tới thiên niên kỷ thứ tư, tổ tiên ta đành chấp nhận chữ Hán. Đây là thứ chữ tượng hình; viết chữ gần như "vẽ chữ". Sự sáng tạo chung quy chỉ là thay đổi cách đọc chữ Hán cho lọt tai người Việt - nghĩa là tạo ra các từ Hán -Việt. Viết như nhau, Trung Quốc đọc là "zẩn mỉn" còn ta đọc là "nhân dân". Tới nay, các từ Hán -Việt chiếm tới quá bán hoặc 2/3 kho từ vựng của ta. Vui hay buồn?
Cứ bảo chữ Hán thịnh hành suốt ngàn năm trước. Kỳ thực, nó độc tôn, nên chỉ 1% dân biết chữ? Nói khác, tới 99% dân ta không đọc nổi, mà nghe người khác đọc hộ cũng không hiểu.
Hẳn là, 99% các cụ ta thời xưa nghe đọc câu " Học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện" (học không chán, dạy người không mỏi) và " Tiên giác giác hậu giác" (người biết trước dạy cho người biết sau) cũng giống như vịt nghe sấm?
Đã thế, dùng chữ Hán không thể ghi lại kho tàng văn hóa dân gian do người Việt sáng tạo. Lưu giữ bằng cách "truyền miệng" thì làm sao tránh khỏi thất thoát lớn?
Giải quyết bằng sáng tạo ra chữ Nôm: Vẫn rơi vào lẩn quẩn!
Chữ Nôm ghi lại tiếng Việt (ca dao, tục ngữ, văn thơ Việt). Nghĩa là khi đọc văn Nôm, người Việt mù chữ vẫn hiểu. Tổ tiên ta càng thêm hứng khởi sáng tác bằng chữ Nôm. Chính nhờ chữ Nôm mà truyện Kiều ra đời.
Nhưng đó là cái vòng lẩn quẩn. Vì cách phổ biến nhất để tạo ra chữ Nôm là ghép hai chữ Hán lại làm một: Trong đó, một chữ dùng để chỉ "nghĩa", còn chữ thứ hai để chỉ "âm".
Ví dụ, muốn viết chữ "tay" thì các cụ ghép chữ "thủ" (nghĩa là tay) với chữ "tây" (phương tây, phương Đoài). Người đọc phải... suy hoặc đoán, để mà đọc thành "tay". Khá phiền, cứ phải giỏi chữ Hán (và giỏi đoán) mới học được, đọc và viết được chữ Nôm. Số người biết chữ Hán vẫn chỉ 1%; biết Nôm càng dưới 1%.
"Văn hay" phải kèm "chữ tốt: Chuyện đương nhiên thời xưa
"Văn hay, chữ tốt" là câu cửa miệng của người xưa nói về thành công trong nghiệp học.
Thời xưa, học vấn của một người được đánh giá ở "văn". Nhưng "văn" chứa trong... bụng (các cụ nghĩ thế), dù hay đến mấy vẫn phải thể hiện bằng chữ thì người khác (ví dụ, người chấm thi) mới đánh giá được. Do vậy "văn hay" phải có cả "chữ tốt".
Luyện "chữ tốt" thời xưa gian khổ gấp trăm (hay ngàn) luyện chữ quốc ngữ thời nay. Viết chữ gần như "vẽ chữ", thiếu hay thừa một nét là thành vô nghĩa hoặc khác nghĩa (sai một ly đi một dăm). Hàng ngang, hàng dọc cứ đều tăm tắp. Tập viết chữ Hán là nỗi vất vả và sợ hãi của học trò xưa, vì đây là chính giai đoạn rất dễ bị "ăn roi" của thầy.
Nhưng trên mức "chữ tốt" còn có mức "chữ đẹp" (cực tốt) nữa. Nhưng đó là chuyện năng khiếu, "hoa tay"..., chỉ dành cho số ít người.
Thời ấy, chỉ cần "văn hay, chữ tốt" là đủ để công thành danh toại. Thời nay, nếu chỉ hành văn trơn tru và viết chữ đẹp - tuy vẫn là ưu điểm - nhưng chưa nói được gì nhiều. May mắn, từ năm 1915, nước ta đã thay chữ Hán bằng chữ quốc ngữ. Để thanh toán mù chữ, thuở xưa cần 3 năm; thì thời nay chỉ cần 3 tháng. Để luyện "chữ tốt" cũng vậy.
Thứ bậc giữa "văn hay" với "chữ tốt"
Một cách vắn tắt, làm văn là việc của cái đầu, viết chữ do tay. Khi vua muốn ban ra một chiếu chỉ, một đạo sắc phong, một lời khuyến dụ... thì các vị "văn hay" sẽ lĩnh ý và thảo ra văn bản. Họ phải dùng lời văn thích hợp và viết bằng thứ "chữ tốt" để vua duyệt. Sau đó, sẽ có những người "chữ cực tốt" sao chép thành nhiều bản để gửi đi các nơi. Như vậy, người "văn hay" là quan, gần gũi vua; còn người "chữ đẹp" chỉ là những thư lại, có khi cả đời không thấy long nhan.
Ở cấp địa phương (đạo, trấn, tỉnh, huyện) vị đứng đầu chính quyền vẫn là người "văn hay", còn trong số phụ tá có vài người "chữ tốt" (lo việc sổ sách, sao chép văn thư...).
Dẫu sao, thời xưa người "chữ tốt" (nhất là "chữ đẹp") vẫn có việc làm phù hợp. Còn thời nay, khó kiếm kế sinh nhai thuần túy chỉ bằng "chữ đẹp". Bởi vì, máy đã thay thế. Người viết đẹp nhất cả nước cũng chỉ "đẹp như chữ đánh máy", hoặc "như chữ sách in"(!).
Thi chữ đẹp
Thời nay, máy đã thay thế ngày càng vượt trội sự khéo léo của bàn tay. Tuy nhiên, vẫn nên tổ chức thi chữ đẹp, để đáp ứng nguyện vọng của những người có năng khiếu muốn tranh tài - giống như nhiều cuộc thi năng khiếu khác.
Phải nói thêm: Viết chữ đẹp, thêm óc sáng tạo, tâm hồn nghệ sĩ... vẫn có thể "sống tốt" bằng nghề thư pháp. Thực tế, sản phẩm của các nhà thư pháp ở ta thường là để tặng.
Còn chuyện học sinh cả lớp, cả trường, cả huyện... phải rầm rộ đi thi "chữ đẹp", thì đấy là chuyện khác. Nó thể hiện một triết lý rất lỗi thời (mà người có quyền cứ tự ý áp đặt, dưới danh nghĩa nào đó - ví dụ, để rèn "nết người" - cho đại trà vài chục triệu đứa trẻ), nguy hiểm hơn cả bệnh "thành tích", bệnh "phong trào".
Số người dựa vào "chữ tốt" để sinh nhai cứ hiếm dần. Vậy, các bậc cha mẹ thời nay nếu có ý định đầu tư tiền của và công sức cho con cái về "chữ tốt" cần suy nghĩ cho kỹ.
Rèn chữ
Thời xưa, không rèn chữ sẽ thiệt thòi nhãn tiền. Vì đó là thứ chữ khó viết và dễ sai sót dẫn đến sai nghĩa. Những người "văn hay" thì địa vị xã hội không thấp. Họ phải thảo ra những văn bản "chữ tốt", để cho đám "chữ cực tốt" khỏi nhầm lẫn khi sao chép.
Nếu họ là các bậc uyên thâm, họ còn sáng tác (Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú, Nguyễn Du...) và có cả một đội ngũ "chữ tốt" sao chép thành hàng trăm cuốn sách. Cho tới khi con người biết khắc chữ vào tấm ván để in ra hàng loạt thì bản gốc càng phải viết bằng thứ "chữ tốt" để thợ khác khỏi nhầm lẫn (rất khó sửa).
Thời cận đại, khi đã có chữ quốc ngữ, có máy chữ và máy in, các vị Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... vẫn phải rèn chữ để bản thảo đỡ tốn giấy (giấy rất đắt, phải viết bằng thứ chữ nhỏ li ti) và để thư ký gõ máy chữ khỏi nhầm lẫn; và để thợ in đỡ mắc lỗi khi xếp chữ. Điều khác xưa: người đánh máy chữ và thợ xếp chữ in không cần "chữ tốt" nữa. Các nhà văn thế hệ sau làm việc lúc giao thời, nhưng thích nghi rất nhanh: từ viết tay, họ chuyển sang dùng bàn phím.
"Chữ đẹp" đến mức nào là đủ?
Đã đi học thì phải tập viết. Cứ cho rằng trong tương lai không xa, mỗi học sinh sẽ sở hữu một máy tính gọn nhẹ (mang theo tới lớp) trong chứa sẵn toàn bộ sách giáo khoa và tài liệu tham khảo; cứ cho rằng họ sẽ được dạy sử dụng bàn phím thành thạo tới mức gõ chữ nhanh hơn viết (quả vậy đấy: gõ một chữ trên bàn phím để nó hiện ra màn hình vẫn nhanh hơn viết chữ đó ra giấy)... Nhưng, dứt khoát, họ vẫn phải tập viết. Vì trong cuộc đời, có lúc họ phải viết chứ không chỉ trông cậy vào máy vi tính mà xong. Vậy, cần tập viết tới mức nào? Chẳng cần cãi nhau cho mất thì giờ; mà cứ xem "người ta" đã làm.
1) Dứt khoát học sinh phải viết đủ nét, đủ dấu, để ai cũng đọc được bản viết của mình. Họ viết ra là để người khác đọc (trước hết là để trả bài cho thầy, cô; sau này là lá đơn xin việc mà nơi tuyển chọn quy định "tự viết", tờ giấy biên nhận, đăng ký bút tích với cơ quan quản lý...). Còn việc ghi chép cho riêng mình, họ tha hồ tự ghi, tự hiểu.
2) Họ phải tập viết nhanh, vì thời công nghiệp đòi hỏi tiết kiệm thời gian.
3) Họ chỉ viết ngắn. Nếu cần viết dài, đã có vi tính và máy in.
Thế là đủ.
Nhưng khi cần viết nhanh, nét chữ lại trở về kiểu "vốn có".
Thời gian lẽ ra dành cho tập viết như hiện nay (nhất là để thi "chữ đẹp") liệu có nên dùng để dạy các cháu sử dụng bàn phím? Nhiều phụ huynh đã nhận ra lợi hại.
- Điều không lạ, những bài được giải "chữ đẹp" đều có nét chữ na ná như nhau, vì cùng được dạy theo một mẫu, mặc dù internet đã miễn phí rất nhiều mẫu chữ cực đẹp.
- Điều không lạ nữa: Khi phải viết nhanh, những người được giải lại trở về cách viết cố hữu của mình. Chữ là người. Chính do vậy, ta mới có thể " đoán tính cách con người theo nét chữ". Rút ra: nét chữ (để thi) chẳng liên quan gì tới "nết người". Chớ ngộ nhận.
Tại sao trẻ em Việt Nam cứ phải vung phí tuổi xuân vào những cuộc đua - tuy rất bổ ích cho "thành tích" của người có quyền, nhưng - vô bổ đối với sự nghiệp tương lai của chính các em? Mà tuổi thọ của dân ta chưa phải quá cao so với các dân tộc khác, để các cháu tiêu tốn tuổi trẻ vào việc này.
Theo Vietnamnet
Thầy giáo viết chữ đẹp đến khó tin "Thấy ai chữ xấu chịu không có nổi" nên thầy Hà Văn Tiếp (39 tuổi, Trường Tiểu học thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, Bến Tre) quyết tâm rèn chữ và rèn cả tính cách cho các học trò của mình. Nói về việc luyện lại nét chữ, thầy Hà Văn Tiếp cho rằng người nào cũng có thể luyện được, không...