Mở ngành: Càng tự chủ càng dễ ‘lệch pha’
Các trường đại học được tự chủ mở ngành mà không cần thông qua Bộ GD&ĐT như trước khiến nhiều chuyên gia lo ngại có sự hỗn loạn trong mở ngành đào tạo.
Năm qua, các trường đại học (ĐH) mở hơn 70 ngành mới theo Đề án thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động giai đoạn 2015 – 2017.
‘Bi kịch’ nguồn nhân lực
Cụ thể, ĐH Kinh tế TP.HCM mở 13 chuyên ngành đào tạo mới, trong đó chủ yếu là các ngành thiên về kinh tế như kinh tế học, kinh tế nông nghiệp, kinh tế quốc tế, quản trị khởi nghiệp, kinh doanh thương mại, quản trị truyền thông, kế toán công, thương mại điện tử…
ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM mở 2 ngành đào tạo công nghệ vật liệu dệt, may và kinh doanh thời trang, dệt may. ĐH Mở TP.HCM mở 4 ngành mới gồm luật, quản lý nhà nước, quản trị nhân sự, kinh doanh quốc tế.
ĐH Công nghiệp TP.HCM cũng tuyển thêm 15 ngành mới, trong đó có cả các ngành kiểm toán, marketing, kinh doanh quốc tế, luật kinh tế, luật quốc tế…
Học sinh tìm hiểu ngành nghề của một trường ĐH tại TP HCM. Ảnh: Tấn Thạnh/Người Lao Động.
Ở khối trường tư, ĐH Kinh tế – Tài chính (UEF) mở thêm nhiều ngành như: Quản trị khách sạn, quản trị nhân sự, quan hệ công chúng, thương mại điện tử. ĐH Nguyễn Tất Thành tuyển sinh 8 ngành mới, đa số năng khiếu và ngành marketing.
Đa số các ngành mới mở thuộc khối ngành kinh tế, quản lý, công nghệ thông tin… được cho là các ngành “hot”, hầu như trường nào cũng có, gây lo ngại bị bão hòa, lãng phí nhân lực trong xã hội.
TS Trần Đình Lý – Trưởng phòng Đào tạo ĐH Nông Lâm TP.HCM – cho biết yêu cầu mở ngành mới là phải dựa vào tất cả yếu tố, điều kiện về năng lực (cơ sở vật chất, đội ngũ giảng viên, nhu cầu thị trường lao động).
Ngành nào dù mới hay cũ nếu sinh ra không bắt đầu từ “người mẹ” nhu cầu thị trường thì dù có được đẩy lên đến đâu cũng sẽ không bền vững.
Theo TS Lý, khái niệm ngành “hot” đến từ 2 nơi: Một là ngành thực sự quan trọng về nhu cầu thị trường lao động, nó có thật; hai là đến từ việc “tung hô” nhờ trợ giúp của công nghệ.
Ngành “hot” loại này chắc chắn không bền vững vì không thật. Tuy nhiên, cần nói thêm, ngành chia theo nhu cầu cũng có 2 dạng: Nhu cầu thiết yếu và nhu cầu không thiết yếu.
Những ngành đáp ứng cho nhu cầu thiết yếu (y, dược) sẽ được đáp ứng từ 2 nguồn: Nguồn tin cậy (các trường có uy tín) và từ các trường “đua nhau mở ồ ạt”.
Video đang HOT
“Nếu các trường ĐH chưa đủ năng lực mà đào tạo (đặc biệt ngành cần năng lực chuyên sâu) thì đấy chính là bi kịch cho thị trường đào tạo nguồn nhân lực”, TS Lý nhận định.
Coi chừng hỗn loạn ngành nghề
PGS.TS Nguyễn Thiện Tống cho biết do tổ chức ĐH nước ta không giống các nước nên các trường ĐH trong và ngoài nước không tương đương nhau. Mô hình ĐH ở các nước là viện ĐH đa lĩnh vực, gồm đủ các ngành nghề như nông nghiệp, luật, kinh tế…
Trong đó, mỗi viện có hội đồng giáo sư, hội đồng khoa học chịu trách nhiệm cân đối các ngành nghề đào tạo…Chỉ những đơn vị này mới có năng lực tự chủ ĐH, chịu trách nhiệm với xã hội.
“Nhiều quan điểm cho rằng trường ĐH tự phải có quyền tự chủ, tôi cho rằng một trường ĐH chuyên môn quá lặt vặt không thể tự chủ được. Họ sẽ bành trướng chuyên môn to lên, méo mó khái niệm. Sinh viên vào học, sau đó ra thất nghiệp”, ông nói.
Theo PGS.TS Nguyễn Thiện Tống, một viện, ĐH không cho phép được mở tràn lan các ngành, tự trong trường ĐH cân đối với nhau. Hiện nay, việc sắp xếp ngành nghề ở các trường ĐH không được khoa học nên sinh ra đào tạo nhiều ngành nghề một cách riêng lẻ.
“Tự chủ, tự do mở ngành nghề sẽ dẫn đến tình trạng hỗn loạn ngành nghề khiến xã hội trả giá, mà sinh viên là nạn nhân”, ông Tống nhấn mạnh.
Chuyên gia này cho rằng hiện nay, nhiều trường nhỏ không đủ uy tín, nếu Bộ GD&ĐT thả lỏng, họ sẽ tuyển sinh đông đúc, đào tạo không đủ chất lượng, hậu quả là xã hội, gia đình và bản thân sinh viên phải chịu thiệt thòi, điển hình là tình trạng thất nghiệp của trí thức hiện nay.
Theo ông Trần Anh Tuấn, Phó giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động TP.HCM, việc giao quyền tự chủ cho các trường tự xây dựng ngành nghề để đào tạo theo xu hướng thị trường lao động là quyết định tốt nhằm nâng cao trách nhiệm của nhà trường trong quyết định xây dựng chương trình.
Điều quan trọng là các trường có tự giác thực hiện theo nguyên tắc này hay không. Bước đầu có thể nhiều sinh viên chạy theo thị hiếu, sự quảng bá mà chọn ngành nhưng qua thời gian, người học sẽ tự điều tiết.
Người học cũng nên chủ động trang bị kiến thức, không nên ỷ lại, nghĩ rằng có cơ quan nào “siêu phàm” có thể dự báo chính xác ngành nghề đủ hay thiếu.
Tuy nhiên, đối với thị trường lao động hiện nay, ngành nghề cũng chỉ mang tính quyết định một phần, yếu tố chính là sinh viên phải tự rèn luyện kiến thức, kỹ năng, ngoại ngữ…
Không nên buông lỏng việc mở ngành
Theo PGS.TS Nguyễn Thiện Tống, các trường ĐH cần tham khảo các cuộc khảo sát, nghiên cứu thống kê dự báo, nghiên cứu tổng thể hệ thống ngành nghề của xã hội, từ đó xem xét lại chương trình đào tạo.
Các trường cũng cần “mềm dẻo hóa” chương trình đào tạo, để sinh viên có thể học được nhiều kỹ năng kiến thức ở mảng liên quan, linh hoạt trong vấn đề chuyên môn đề phòng 4 năm sau khi ra trường, ngành học không còn nhu cầu.
Theo ông, việc tự chủ mở ngành cần được chuyển tiếp dần dần, không nên buông lỏng hoàn toàn dễ gây nên những hậu quả nêu trên.
Theo Lê Thoa/ Người Lao Động
Được tự chủ, vẫn chưa đủ!
Thực tế, có hiện tượng một số trường đại học tiến hành tự chủ theo chủ trương mới chưa được đầy đủ, dẫn đến cách hiểu về tự chủ đại học bị thiếu hụt.
Muốn đổi mới giáo dục đại học, cần phải sớm tính đến việc điều chỉnh những điểm đã không còn phù hợp trong Luật Giáo dục hiện hành.
Áp lực thu - chi
Từ vài năm qua, nhiều trường đại học muốn được trao thêm quyền tự chủ, thế nhưng đến thời điểm hiện tại chỉ có 14 trường công được thực hiện theo đề án tự chủ do Chính phủ phê duyệt.
Như vậy là quá ít ỏi so với gần 180 trường công lập trong cả nước. Nhưng ngay cả với các trường này, chủ yếu đang thực hiện tự chủ về tài chính. Tức là không nhận ngân sách chi thường xuyên từ nhà nước mà sẽ tự hạch toán thu chi.
Sinh viên Đại học Bách khoa Hà Nội được đầu tư cơ sở khang trang, phục vụ học tập và nghiên cứu.
Trong khi đó, nhiều khía cạnh khác phải tiến hành đồng thời lại chưa có sự chuẩn bị chu đáo. Ngay như một số trường lớn ở TP.HCM như ĐH Kinh tế TP.HCM, ĐH Tài chính - Marketing..., khi được duyệt cơ chế tự chủ, việc đầu tiên là nâng học phí và thiếu quan tâm đến các lĩnh vực khác.
Vấn đề này khiến xã hội hiểu nhầm rằng tự chủ ở các trường thực chất chỉ là cắt giảm nguồn chi từ ngân sách và để các trường xoay sở vận hành trong cơ chế thị trường.
Phải hiểu rằng ngân sách sẽ được phân bổ theo cách khác chứ không phải "bao cấp" như trước đây. Theo PGS. TS Hoàng Minh Sơn - hiệu trưởng ĐH Bách khoa Hà Nội, tự chủ về tài chính là nhà nước sẽ không cấp kinh phí thường xuyên theo kiểu truyền thống nữa mà cấp theo nhiệm vụ, đơn đặt hàng, dự án, trên nguyên tắc cạnh tranh.
"Trường nào năng lực, tạo ra kết quả đào tạo tốt, sẽ được đầu tư xứng đáng. Với mỗi chương trình được đặt hàng, hiệu quả nghiên cứu, ứng dụng ra sao, nhà nước sẽ căn cứ vào đó để đầu tư", ông Sơn nói.
Song như ý kiến của lãnh đạo một số trường thực hiện đề án thí điểm, tăng học phí là việc bắt buộc để có thể tiến hành đầu tư, nâng cao chất lượng đào tạo. Song tăng như nào, lộ trình ra sao lại là điều cần cân nhắc để tránh bị phản ứng.
Có thể thấy, nhiều trường hiện còn đang loay hoay với các phương án tài chính, cân đối thu chi, nâng học phí. Các vấn đề về hoạt động chuyên môn và bổ nhiệm nhân sự lãnh đạo hầu như vẫn... giậm chân tại chỗ.
Chẳng hạn, tại ĐH Tài chính - Marketing, được giao cơ chế tự chủ nhưng chỉ làm tốt một số vấn đề về quản lý tài chính như học phí, tiền lương, đầu tư cơ sở vật chất...
Riêng một số vấn đề như xây dựng đội ngũ giáo viên vẫn phải xin Bộ GD&ĐT cho lộ trình đến năm 2020 sẽ chuẩn hóa. Thậm chí, việc bổ nhiệm hiệu trưởng vào tháng 8 vừa qua cũng phải "chờ duyệt" từ Bộ Tài chính.
Cần cơ chế công bằng và hướng dẫn cụ thể
Với thực tế hiện nay, nếu hiểu theo cách xin "cai" bầu sữa ngân sách thì sẽ nhiều trường ngần ngại, không dám thử sức, nhất là các trường vốn được bao cấp đào tạo như khối sư phạm, xã hội nhân văn.
GS. TS Trần Hồng Quân - Chủ tịch Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam - cho rằng phải xóa bỏ sự quản lý tập trung ngặt nghèo để các trường có động lực tự thân và có điều kiện khách quan, luôn đổi mới theo hướng tối ưu hóa để tồn tại và phát triển.
Cơ chế mở như vậy, tức là tính cạnh tranh phải được đề cao, từ đó tạo sự năng động, nâng cao uy tín và hội nhập. Ngược lại vấn đề này cũng có thể tạo ra những hiệu ứng tiêu cực nếu không có sự điều tiết khoa học.
Theo PGS. TS Nguyễn Mạnh Hùng - hiệu trưởng ĐH Nguyễn Tất Thành - chỉ ra một khía cạnh: Không tính các trường công được "bao cấp". Ở các trường công dù được giao quyền tự chủ về tài chính - tức là không nhận ngân sách chi thường xuyên nhưng vẫn đang được bao cấp cơ sở vật chất, đầu tư xây dựng cơ bản... thì họ vẫn có cái lợi.
Các trường này có thể thu cùng một mức học phí và cung ứng cùng chất lượng dịch vụ so với trường tư. Khi đó lượng thí sinh sẽ lựa chọn trường công thay vì chọn trường tư. Như thế là cạnh tranh không công bằng, buộc nhà nước phải có chính sách điều chỉnh để các trường bước vào một sân chơi công bằng.
Một vấn đề khác được quan tâm, là các quy định pháp lý về quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục đại học cần thống nhất, nhất quán và cùng được cập nhật ở các văn bản quản lý khác nhau, để các cơ sở tự chủ trọn vẹn, tránh tình trạng tự chủ "nửa vời" hoặc trao quyền tự chủ đồng thời vẫn "trói buộc" bởi cơ chế.
Nhận thấy việc tự chủ là cần thiết, PGS. TS Hoàng Minh Sơn - hiệu trưởng ĐH Bách khoa Hà Nội - cho rằng nhà trường mong muốn tự chủ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện một số vấn đề còn vướng, như việc đầu tư kinh phí phải qua các cấp kiểm toán, kho bạc... và đến nay, các cơ quan này với nhà trường vẫn chưa có sự đồng thuận.
Cũng theo TS Sơn, nhà nước đã có quy định chính sách cho các trường vay vốn đầu tư, nhưng cần có hướng dẫn vay ở đâu, vay như thế nào. Việc ưu tiên cho sinh viên vay tiền đi học cũng cần có hướng dẫn cụ thể để việc thực hiện tốt hơn.
Tự chủ đại học là chủ trương đúng, nhưng lại đang bị bó trong thực thi vì thiếu những cơ chế chính sách đồng bộ. Nếu không sớm đáp ứng đòi hỏi từ thực tế, thì quá trình áp dụng tự chủ sẽ chỉ loanh quanh với áp lực thu - chi mà thôi. Cái gốc là chất lượng giáo dục sẽ chẳng thể thay đổi được.
Tự chủ trong đại học được phân biệt thành hai loại: Một là, tự chủ học thuật bao gồm các lĩnh vực học thuật và nghiên cứu, cụ thể là tự chủ trong lĩnh vực liên quan đến thiết kế chương trình giảng dạy, xây dựng chính sách nghiên cứu, xác định điểm tuyển sinh, bổ nhiệm giảng viên, trao học vị.
Hai là, tự chủ phi học thuật bao gồm các lĩnh vực xen phủ với nhiều vấn đề tài chính như ngân sách, quản lý tài chính, bổ nhiệm và trả lương các nhân viên, mua sắm, và các hợp đồng liên kết...
Theo Bá Lâm - Hải Miên / Nhân Dân
Tiếp tục 'cởi trói' đại học Một số vấn đề thời sự của giáo dục đại học đã được các đại biểu đề cập tại hội thảo quốc tế "đào tạo và nghiên cứu về kinh tế thị trường của các trường đại học Việt Nam". Tại chương trình diễn ra ngày 4/11, do ĐH Kinh tế Quốc dân (Hà Nội) tổ chức, bà Vũ Lan Anh, chuyên gia...