Mở lối ‘mê cung’ tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ
Khi có được một công cụ tài chính thông minh, hiệu quả, các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gạt được nỗi lo âu, do dự khi vay vốn tín dụng để không bỏ lỡ nhiều cơ hội phát triển tiềm năng.
Vốn tín dụng – “Cánh cửa” khó mở của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chị B.T Hoa là chủ một cửa hàng thủ công mỹ nghệ tại Hà Nội. Sau hơn 3 năm phát triển với doanh thu ổn định, chị Hoa dự định mở thêm xưởng sản xuất. Tuy nhiên, giống như đa phần doanh nghiệp nhỏ đi lên từ hộ kinh doanh khác, làm sao để mở rộng nguồn vốn là vấn đề khiến chị trăn trở nhất.
“Khi còn là cửa hàng thì mình cứ nhập gì bán nấy, hầu hết các nhà cung cấp đều cho mình nợ hoặc trả trước tối đa 50% giá trị hàng hóa, cuối kỳ mới cần thanh toán toàn bộ tiền hàng đã nhập. Như thế, các khoản thu – chi có thể bù cho nhau. Tuy nhiên khi mở xưởng sản xuất, ngoài việc thuê mặt bằng và thợ lành nghề, doanh nghiệp còn cần rất nhiều vốn cho nhập nguyên liệu, công cụ… Lần đầu đi vay vốn ngân hàng, mình chỉ nhận được cái lắc đầu vì hồ sơ yếu”, chị Hoa chia sẻ.
Tương tự câu chuyện của chị Hoa là tình trạng của anh N.N Vinh (Vĩnh Phúc). Trong năm 2018, nhận thấy nhu cầu về tưới tiêu của các nhà vườn cung cấp nông sản sạch, anh Vinh đã thành lập một công ty nhỏ, chuyên cung cấp các giải pháp công nghệ để áp dụng vào quy trình tưới nước tự động cho cây trồng nông nghiệp trên diện tích lớn. Và ngay trong năm 2019, anh Vinh nhận được đơn hàng lớn từ một doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực sản xuất nông sản sạch xuất khẩu.
“Đây là cơ hội mà công ty mình rất mong chờ. Tuy nhiên, để có thể triển khai trong khoảng thời gian ngắn, như yêu cầu của đối tác, thì bên mình đang gặp phải vấn đề huy động vốn để đầu tư trang thiết bị kỹ thuật cũng như nhân sự chất lượng cao”, anh Vinh chia sẻ.
Anh Vinh cho hay, số vốn dự tính nằm ngoài khả năng của cá nhân trong khi đó tài sản có thể dùng thế chấp vay ngân hàng cũng không đáng kể, lại thêm tâm lý lo lắng khi chuẩn bị hồ sơ vay vốn nên anh thực sự bối rối.
Doanh nghiệp nhỏ gặp nhiều khó khăn để phát triển vì thiếu vốn.
Được biết, theo con số thống kê của VCCI, tính đến thời điểm cuối năm 2019, trên cả nước có khoảng hơn 800.000 doanh nghiệp hoạt động chính thức. Còn số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy, tính đến hết quý 3/2019, chỉ có chưa tới 200.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm khoảng 25% số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế) tiếp cận được vốn vay ngân hàng với tổng dư nợ tín dụng đạt khoảng hơn 1,4 triệu tỷ đồng. Như vậy, tỷ lệ doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa tiếp cận được vốn tín dụng lên tới hơn 70%.
Theo nhận định của nhiều chuyên gia, nguyên nhân chính của tình trạng trên là do hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hệ thống kế toán tài chính chưa chuẩn mực, thiếu tài sản thế chấp, tâm lý ngại thủ tục do thiếu kinh nghiệm khi chuẩn bị hồ sơ vay vốn ngân hàng.
Công nghệ tài chính – Giải pháp tín dụng cho doanh nghiệp hiện đại
Video đang HOT
Ra đời vào năm 2005 tại Anh và nhanh chóng phổ biến toàn cầu, “Cho vay ngang hàng – P2P Lending” được ví như “trận mưa” giải quyết “cơn khát vốn” của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhờ ứng dụng hiệu quả các công nghệ hiện đại như Big Data, Blockchain, Internet of Things… P2P Lending tạo một “sân chơi” minh bạch cho cả nhà đầu tư và doanh nghiệp/cá nhân cần vay vốn và trở thành một trong những mô hình Fintech thành công nhất.
Xuất hiện tại Việt Nam khoảng 4 năm trở lại đây, từ mô hình cho vay ngang hàng đối với riêng cá nhân, P2P Lending đã trở thành một kênh tín dụng hiệu quả cho các doanh nghiệp khan vốn. Hình thức này giúp các doanh nghiệp có được khoản vốn vay cần thiết mà không yêu cầu thế chấp tài sản, lãi suất hợp lí, chi phí dịch vụ thấp, thủ tục nhanh chóng dưới sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại.
Tháng 10/ 2019, sau khi tìm hiểu thông qua một người bạn là nhà đầu tư trên VNVON – sàn cho vay doanh nghiệp thuộc Công ty cổ phần Kết nối Tài chính Việt Nam (VFL) – và được các chuyên gia từ VFL hướng dẫn thủ tục lập hồ sơ năng lực, anh Vinh chính thức đăng ký tài khoản trên sàn. Từ đây, anh đã “gọi” được số vốn cần thiết để phục vụ cho dự án lớn đầu tay.
Với trường hợp của chị Hoa cũng tương tự, chị cũng đã tìm được lời giải cho bài toán về vốn của mình thông qua sự hỗ trợ từ một doanh nghiệp P2P Lending.
Giải được bài toán vốn, doanh nghiệp sẽ có động lực chinh phục mục tiêu mới.
Có thể thấy, những kết quả mà anh Vinh hay chị Hoa có được là nhờ tiếp cận được những sàn P2P Lending uy tín, nơi sở hữu các công nghệ Fintech hiện đại. Ví dụ trong trường hợp của VNVON, sàn giao dịch này được tích hợp bộ lọc đơn vay tạo ra các hồ sơ minh bạch, chuẩn chỉ; hệ thống quản lý rủi ro chặt chẽ thông qua công nghệ kết nối, thu thập và phân tích dữ liệu tài chính và phi tài chính; cùng mức lãi suất và chi phí đề nghị hợp lí, linh hoat.
Bên cạnh đó, sự chuyên nghiệp của các sàn P2P Lending này còn nằm ở khả năng hỗ trợ doanh nghiệp trong suốt thời gian tham gia. Thông qua tư vấn của những chuyên gia tài chính hàng đầu, doanh nghiệp có thể khai thác và sử dụng vốn hiệu quả, đảm bảo thanh toán đúng kỳ hạn, giữ độ tín nhiệm cho những lần vay vốn sau này.
“Điểm mạnh của các kênh P2P Lending là thời gian huy động cũng như dịch vụ nhanh gọn. Mọi hoạt động đều qua các kênh online nên tôi có thể theo dõi khoản vay mọi lúc, mọi nơi. Đây là kênh huy động vốn tín dụng phù hợp những tình huống cấp bách. Đây thực sự là một giải pháp của công nghệ dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt khi tài sản thế chấp và kinh nghiệm vay vốn còn non như chúng tôi”, anh Vinh chia sẻ.
Thu Hà
Theo vietnamfinance.vn
Siết room để chặn nguy cơ thao túng
Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) 2019, một số nhà đầu tư nước ngoài cho rằng, room sở hữu 49% tại trung gian thanh toán sẽ gây trở ngại lớn cho việc phát triển fintech. Phản ứng này là rất dễ hiểu, bởi thanh toán điện tử đang là mảnh đất màu mỡ đối với nhiều nhà đầu tư nước ngoài.
Phần lớn thị phần ví điện tử đang nằm trong tay doanh nghiệp nước ngoài.
Nhà đầu tư có nản lòng?
Liên quan đến dự thảo quy định tỷ lệ vốn góp tối đa của nhà đầu tư nước ngoài tại trung gian thanh toán là 49% (dự thảo Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP), bà Amanda Rasmussen, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam (AmCham) cho rằng, giới hạn trên sẽ hạn chế đáng kể khả năng của các công ty khởi nghiệp về công nghệ tài chính (fintech) của Việt Nam trong việc kêu gọi vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài, phát triển tiềm năng nền kinh tế số và tài chính toàn diện của Việt Nam.
Tương tự, ông Fred Burke, Trưởng nhóm Công tác đầu tư và thương mại của VBF cũng cho rằng, quy định trên sẽ gây trở ngại tới chuyển đổi số trong nước và làm nản lòng các nhà đầu tư, khiến Việt Nam mất đi cơ hội để thành tâm điểm đổi mới toàn cầu trong lĩnh vực này.
Các nhà đầu tư đề nghị Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cân nhắc lại việc áp dụng hồi tố yêu cầu tuân thủ giới hạn sở hữu nước ngoài. Trong trường hợp Chính phủ lựa chọn áp dụng mức giới hạn sở hữu nước ngoài, thì sở hữu nước ngoài tại thời điểm đạo luật được thông qua sẽ không bị hồi tố và không phải thoái vốn theo quy định về hạn mức của luật (dự thảo đưa ra quy định hồi tố).
Theo đánh giá của các chuyên gia, phản ứng của nhà đầu tư nước ngoài về "room 49%" là dễ hiểu, bởi đây là thị trường màu mỡ mà họ đang nhắm tới và đây cũng là lĩnh vực gần như đang bị khối ngoại ôm trọn thị phần.
Tuy vậy, nhiều chuyên gia trong ngành cho rằng, việc hạn chế room chỉ ảnh hưởng đến cơ hội chiếm lĩnh thị trường thanh toán của khối ngoại, chứ không ảnh hưởng đến phát triển tiềm năng kinh tế số của Việt Nam hay thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng cho biết: "Thanh toán chỉ là một khía cạnh rất nhỏ trong ngành tài chính - ngân hàng cũng như trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Vì vậy, hạn chế room sở hữu 49% tại trung gian thanh toán nước ngoài không có nghĩa là nền tài chính của Việt Nam bị cản trở trong con đường số hóa. Tôi cũng không nghĩ rằng, việc hạn chế room sẽ khiến dòng vốn FDI đổ vào lĩnh vực này sút giảm. Nhà đầu tư nước ngoài luôn muốn kiểm soát toàn bộ hoạt động của các công ty họ rót vốn tại thị trường Việt Nam, nên quy định hạn chế room trước mắt có thể khiến dòng vốn đầu tư bị chững lại, song với tiềm năng của thị trường thanh toán Việt Nam, chắc chắn nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ vẫn tăng mạnh".
Nguy cơ bị thao túng là có thật?
Một vấn đề khác là, nếu xét về giá trị giao dịch, doanh số thực hiện qua ví điện tử chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé so với doanh số giao dịch qua hệ thống ngân hàng. Việc siết một lĩnh vực thanh toán với thị phần còn nhỏ bé như vậy có đáng không?
"Các công nghệ tài chính mới, các fintech xuất hiện ngày càng nhiều, nhưng quy định còn rất thiếu. Chính vì vậy, NHNN phải ban hành các biện pháp để bảo vệ an ninh tài chính trong nước. Tôi cho rằng, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, việc khống chế tỷ lệ tối đa 49% là hợp lý. Tuy nhiên, trong xu thế mở cửa, bên cạnh đẩy nhanh xây dựng hệ thống thanh toán nội địa và hoàn thiện thể chế pháp lý, NHNN cũng cần có lộ trình để nới lỏng room sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại trung gian thanh toán"
Ông Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế
Trả lời câu hỏi trên của phóng viên Báo Đầu tư, TS. Nguyễn Trí Hiếu cho rằng, việc siết room sở hữu mà NHNN đưa ra không phải dựa vào thị phần của trung gian thanh toán với thanh toán quốc gia, mà chủ yếu dựa vào những rủi ro mà lĩnh vực này có thể gây ra, bởi nếu rủi ro xảy ra có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống.
"Cơ sở quản lý của NHNN dựa vào rủi ro, chứ không phải dựa vào thị phần. Các công ty chiếm thị phần nhỏ so với thị trường, nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn thì vẫn cần phải hết sức thận trọng", ông Hiếu nói.
Theo NHNN, nguyên nhân khiến cơ quan này đưa ra room 49% là để tránh sự thao túng của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực thanh toán, bảo đảm vai trò chủ động của doanh nghiệp trong nước, quan trọng hơn là để bảo đảm an ninh, an toàn cho hoạt động ngân hàng - tài chính và an ninh tiền tệ quốc gia.
Tuy nhiên, trên thực tế, hầu như toàn bộ thị phần ví điện tử hiện đã nằm trọn trong tay doanh nghiệp ngoại. Hiện cả nước có 32 trung gian thanh toán với gần 30 ví điện tử thì 5 ví lớn đã nắm tới hơn 90% thị phần. Đáng nói, tại 5 ví này, tỷ lệ sở hữu thật của nhà đầu tư ngoại đều đã trên 50%, thậm chí lên tới 90%.
Do đó, nhiều ý kiến cho rằng, NHNN nên hoàn chỉnh khung pháp lý về fintech, việc áp dụng room sở hữu có thể cân nhắc từng lĩnh vực, từng thời điểm. Còn trong trường hợp vẫn áp dụng, cần lường trước hiện tượng lách luật, đặc biệt là hiện tượng mượn cá nhân trong nước đứng tên cổ phần, để giám sát và xử lý chặt chẽ.
Chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư, đại diện một công ty kiểm toán đa quốc gia cho rằng, ở Việt Nam có hàng trăm chi nhánh, văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài, có 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, nhưng không đáng ngại, vì các quy định quản lý trong lĩnh vực ngân hàng rất chặt chẽ. Nhưng với fintech, do các quy định còn lỏng lẻo, nên dễ phát sinh nhiều rủi ro.
Trên thực tế, hoạt động quản lý ví điện tử ở Việt Nam thời gian qua nảy sinh nhiều bất cập liên quan đến bảo mật, nguy cơ về gian lận, rửa tiền, chuyển tiền ra nước ngoài, tiếp tay cho các giao dịch bất hợp pháp... Đây chính là lý do NHNN muốn siết chặt quản lý lĩnh vực này.
Hà Tâm
Theo baodautu.vn
Vốn tín dụng vào bất động sản đang chậm lại Tại buổi gặp gỡ báo chí ngày 6/1 vừa qua, ông Nguyễn Quốc Hùng, Vụ trưởng Vụ Tín dụng, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản năm 2019 đạt 8,8% - thấp hơn so với mức tăng trưởng chung toàn ngành. Nợ xấu ở lĩnh vực này cũng được kiểm...