Mô hình nào cho giáo dục phổ thông Việt Nam?
Giáo dục phổ thông đã triển khai nhiều mô hình trường học khác nhau. Có mô hình duy trì và phát triển, có mô hình sau đó biến mất. Liệu có mô hình trường học nào phù hợp với đổi mới giáo dục trong 15 – 20 năm tới?
Giờ học tại một trường THPT của TP.HCM thuộc mô hình tiên tiến hội nhập quốc tế – ẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH
Phân ban và trường học VNEN đều thất bại
Dạy học phân hóa theo khả năng, sở thích và định hướng nghề nghiệp của học sinh (HS) là xu hướng giáo dục thế giới. Ở cấp vĩ mô, phân hóa là phân luồng, phân ban hoặc dạy học tự chọn. Một số nước thực hiện phân hóa sớm, sau cấp tiểu học như Đức, Singapore, nhưng đa số các nước thực hiên phân hóa sau trung học cơ sở.
Ở nước ta, phân ban cấp THPT thực hiện theo mô hình giáo dục Pháp, được duy trì ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 và sau đó tiếp tục thực hiện ở vùng giải phóng miền Nam giai đoạn 1975 – 1980. Tuy nhiên từ đó đến nay, mô hình này nhiều thăng trầm. Giai đoạn 1980 – 1990 bỏ phân ban, 1991 – 1998 phân ban trở lại, 1999 – 2006: bỏ phân ban.
Sau 2006, thực hiện phân ban, với 3 ban: khoa học tự nhiên (toán, lý, hóa, sinh), khoa học xã hội (văn, sử, địa, ngoại ngữ) và cơ bản (văn, toán). Đến nay, cả nước chỉ còn một ban duy nhất, đó là ban cơ bản. Như vậy, phân ban được thí điểm nhiều lần, nhưng cuối cùng vẫn thất bại.
Mô hình trường học mới VNEN cũng là một thất bại nữa. VNEN là dự án sư phạm nhằm xây dựng nhà trường tiên tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu toàn diện và đặc điểm giáo dục VN. Chương trình được triển khai đầu năm 2013, đến năm 2016 đã có khoảng 5.000 trường tiểu học và THCS khắp cả nước thực hiện.
Có thể khẳng định rằng VNEN có một số thành tố tiến bộ như: phương pháp dạy học (giáo viên chủ yếu hướng dẫn, còn HS chủ động, tích cực học tập); tổ chức lớp học (chủ yếu HS tự quản); sự tham gia của cha mẹ HS, cộng đồng… Nhưng từ năm 2017, các địa phương lần lượt dừng trường học VNEN, sau đó Bộ GD-ĐT yêu cầu các trường chỉ phát huy những thành tố tích cực của mô hình này.
Mô hình trường toàn diện – mở
Video đang HOT
Nhiệm vụ giáo dục của thế kỷ 21 là mang lại cho mọi người cơ hội học tập suốt đời với mọi trình độ khác nhau, để trở thành người có năng lực giao tiếp và hợp tác, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề và sáng tạo, tự học, tự khẳng định mình và góp phần canh tân mọi lĩnh vực của xã hội. Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang làm thay đổi nền sản xuất thế giới: máy móc, robot sẽ thay thế con người, lao động một số ngành sẽ thất nghiệp. Làn sóng công nghệ mới tác động đến giáo dục, nhất là cá nhân hóa học tập, giúp người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, học theo nhu cầu, khả năng và điều kiện của từng cá nhân.
Nhiều mô hình tốt cần phát huy
Thực tiễn giáo dục ở nước ta đã và đang thực hiện một số mô hình trường học tốt cần phát huy như: trường phổ thông chất lượng cao, trường tiên tiến hội nhập quốc tế, trường học gắn với kinh tế – xã hội địa phương, trường chuyên/trường năng khiếu dựa trên nền tảng toàn diện… Đây là những thực tiễn phong phú, đa dạng của mô hình trường học toàn diện – mở – nền tảng học tập.
Về mô hình trường học hạnh phúc, trước hết là trường học toàn diện và bổ sung thêm các tiêu chí như: yêu thương, an toàn và tôn trọng. Cần phải nhận thức đúng đắn về giáo dục hạnh phúc, ở đó HS cảm nhận được niềm vui trong học tập, kích thích sự tò mò và học tập với một niềm say mê thực sự. Nếu nhà trường chỉ chú ý đến hoạt động vui chơi mà coi nhẹ việc học tập, rèn luyện đúng đắn sẽ dẫn đến một số hệ lụy như: HS dễ hình thành thói lười biếng; thiếu đam mê làm việc chăm chỉ; không tạo được chỗ đứng trong xã hội sau này.
Ở nước ta, đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo là chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Như vậy, trường học toàn diện – mở – nền tảng học tập là mô hình trường học phù hợp với đổi mới giáo dục trong giai đoạn tới, với 5 tiêu chí định hướng:
Phát triển toàn diện HS, giúp HS không chỉ có khả năng tự học ở trường mà hình thành khả năng tự học suốt đời.
Dân chủ hóa giáo dục. Trường học là xã hội dân chủ thu nhỏ. Ở đó, HS có quyền được lựa chọn các môn học, hoạt động giáo dục phù hợp với bản thân, HS có quyền xây dựng kế hoạch học tập của mình, phát biểu ý kiến, phản biện để nhận thức vấn đề sâu và sáng tạo hơn, có khi ý kiến HS khác với thầy giáo nhưng vẫn được tôn trọng.
Cá nhân hóa giáo dục, giúp HS phát hiện sự khác biệt của mình, đáp ứng sự khác biệt đó và phát huy cao nhất khả năng, sở thích của mỗi em.
Ứng dụng hóa giáo dục. Các kiến thức và kỹ năng thực sự hữu ích đối với HS, gắn với thực tiễn và giúp HS vận dụng được kiến thức đã lĩnh hội vào học tập hay giải quyết các vấn đề cuộc sống.
Trường học mở và hội nhập. Mở về chương trình: ngoài chương trình của Bộ GD-ĐT còn có chương trình địa phương. Mở về hình thức giảng dạy: trực tiếp hoặc trực tuyến; mở về kiểm tra đánh giá bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, đánh giá trong bối cảnh thực tế. Ứng dụng công nghệ 4.0 để cá nhân hóa học tập; tổ chức hoạt động trải nghiệm ở cộng đồng.
Gia tăng cơ hội học tập suốt đời
Sau gần 7 năm triển khai thực hiện, Đề án "Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ" đã đạt hiệu quả tốt.
Kết quả đáng khích lệ cho thấy việc học tập suốt đời không chỉ phụ thuộc vào trường lớp, sách vở mà còn từ những hoạt động trải nghiệm, giao lưu, kết nối...
Một trong nhiều hoạt động trải nghiệm được tổ chức tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.
Đưa sách đi tìm người
Thực hiện phương châm "đưa sách đi tìm người", những năm vừa qua, hệ thống thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ đã tổ chức nhiều hoạt động phục vụ người dân, đặc biệt là giới trẻ. Với mục tiêu phát triển văn hóa đọc và tự học, các hoạt động "học tập suốt đời" có nhiều nội dung sáng tạo nhằm thu hút người dân.
Theo bà Vũ Dương Thúy Ngà, Vụ trưởng Vụ Thư viện (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), thời gian qua các hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực thư viện được đẩy mạnh, nhờ đó số lượng thư viện cấp xã, phòng đọc cơ sở, thư viện tư nhân đã tăng nhanh chóng, cùng với đó là sự phát triển của mô hình tủ sách lớp học, tủ sách phụ huynh... Mạng lưới thư viện góp phần thúc đẩy văn hóa đọc trong cộng đồng.
Cùng với sự đầu tư về cơ sở vật chất, ngành Thư viện đã liên tục đổi mới hoạt động theo hướng phát huy nguồn lực thông tin hiện có, tăng cường luân chuyển sách, tổ chức thư viện lưu động đến vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, trường học, bệnh viện, trại giam... nhằm trao "chìa khóa" học tập suốt đời cho người dân.
Bởi thế, so với năm 2014, khi Đề án "Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ" bắt đầu được triển khai, hiện tổng số bạn đọc đến thư viện công cộng có sự gia tăng vượt bậc - tăng 96%; tổng số sách, báo luân chuyển tại thư viện công cộng tăng 53% so với năm 2014.
Song, với công cuộc "đưa sách đi tìm người", nếu chỉ dừng ở việc đầu tư cho hệ thống thư viện, nhà văn hóa... thì sẽ khó thu hút bạn đọc như yêu cầu đề ra.
Giờ đây, các thư viện không chỉ duy trì hoạt động tĩnh mà còn phải đẩy mạnh các chương trình khuyến đọc, khuyến học thông qua việc tổ chức các sự kiện văn hóa, các cuộc trưng bày, triển lãm, các buổi giao lưu giới thiệu tác giả - tác phẩm, các hội thi như "Đọc một cuốn sách - đi muôn dặm đường", "Kể chuyện sách hè", "Gia đình đọc sách", "Kiến thức muôn màu", các chuyên mục giới thiệu sách trên sóng phát thanh và truyền hình và trên mạng xã hội... Hơn nữa, cần phải tính đến các hoạt động ngoài thư viện như tổ chức câu lạc bộ kỹ năng sống, sinh hoạt chuyên đề... nhằm thu hút bạn đọc đến với thư viện.
Tăng tính trải nghiệm
Hiện nay, việc phát triển văn hóa đọc, đẩy mạnh hoạt động học tập suốt đời đã có được sự kết nối ở nhiều cấp, nhiều ngành. Ví như, các hoạt động bảo tàng không dừng ở nội dung trưng bày, không đơn thuần là nơi lưu giữ những di sản vật chất và tinh thần về lịch sử, văn hóa nữa, mà bảo tàng còn là trung tâm thông tin, là trường học, là "cuốn sách lớn" của công chúng. Nhiều bảo tàng đã chủ động đưa di sản tới cơ sở thông qua các triển lãm lưu động, liên kết với ngành Giáo dục và các địa phương để tổ chức các hoạt động sinh hoạt hè, sinh hoạt cuối tuần, thi tìm hiểu lịch sử, trải nghiệm văn hóa...
Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngân, Giám đốc Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam cho biết: "Ngay từ khi Đề án "Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ" được triển khai thực hiện, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã triển khai nhiều hoạt động như trưng bày ngoài trời có ứng dụng công nghệ mới, trưng bày chuyên đề lồng ghép hoạt động giáo dục trải nghiệm...
Nhờ những hoạt động này, khách đến bảo tàng có cơ hội tương tác, khám phá, trải nghiệm di sản văn hóa". Thực tế, các chương trình tham quan, trải nghiệm như "Chiếc cày và người nông dân", "Khung dệt xưa và nay", "Chợ quê", "Những chú rối tinh nghịch"... cho phép khách tham quan tham gia nhiều hoạt động bổ ích như xay ngô nấu mèn mén, nấu cơm bếp Hoàng Cầm, giã gạo, đào hầm, vẽ tranh dân gian, làm mũ rơm...
Những trải nghiệm này giúp cho khách tham quan, đặc biệt là các học sinh, sinh viên thẩm thấu lịch sử, văn hóa một cách cô đọng, dễ nhớ, dễ hiểu. Học lịch sử, văn hóa từ các trang sách, song chính các hoạt động trải nghiệm tái hiện lịch sử giúp mỗi người hiểu sâu hơn, nhớ lâu hơn, để rồi lại trở về với sách vở bằng các bài viết, ảnh chụp, các báo cáo hoạt động, tập làm phóng viên nhí, thử làm cán bộ bảo tàng, làm nhà khảo cổ...
Giáo dục trải nghiệm đang là một trong những hoạt động chủ lực để thu hút khách đến với các bảo tàng. Như câu lạc bộ "Em yêu lịch sử" và "Giờ học lịch sử tại bảo tàng" tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia hằng năm đón hàng trăm đoàn học sinh đến học tập, tham gia trải nghiệm.
Hoạt động sôi nổi của hệ thống thư viện, bảo tàng cho thấy, muốn đẩy mạnh hơn nữa hoạt động học tập suốt đời trong các thư viện, bảo tàng, nhà văn hóa, câu lạc bộ thì sự phối hợp triển khai hoạt động giữa các thiết chế văn hóa là vô cùng quan trọng. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ mà ngành Văn hóa đã đặt ra trong thời gian tới đây nhằm tạo thuận lợi cho người dân học tập suốt đời, góp phần khuyến học, khuyến tài và xây dựng xã hội học tập.
Bộ GD&ĐT đề xuất tăng học phí tất cả cấp học Theo đề xuất của Bộ GD&ĐT, từ năm học 2021-2022, học phí bậc đại học tăng 12,5%. Học phí bậc mầm non, phổ thông tăng 7,5% so với năm học 2020-2021. Ảnh minh họa Đề xuất này được đưa ra trong dự thảo lần thứ 2 Nghị định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc...