Mẹ nhiễm virus thường gặp, con vừa sinh ra đã tử vong
Thai phụ Quảng Ninh nhiễm virus CMV nhưng không hề hay biết khiến bé sơ sinh tử vong ngay sau khi chào đời nửa ngày.
Chị Minh được gia đình đưa đến Bệnh viện Việt Nam – Thụy Điển Uông Bí sinh con lần 2 khi thai được 39 tuần tuổi, có dấu hiệu đau bụng từng cơn, ra máu thăm…
Khi thực hiện các xét nghiệm chẩn đoán trước sinh, bác sĩ phát hiện thai nhi có dấu hiệu bất thường, ối ít, gan to, ruột non tăng âm vang… nghi bị nhiễm trùng trong bào thai.
Hình ảnh virus CMV khi phóng đại
Các bác sĩ nhanh chóng hỗ trợ sản phụ vượt cạn an toàn, bé trai chào đời nặng 2.7 kg. Tuy nhiên ngay sau đó trẻ có diễn biến bất thường.
Dù được cấp cứu, đặt nội khí quản và điều trị tích cực ngay lập tức song trẻ vẫn vàng nhợt toàn thân, ban tím vùng lưng, tim đập rời rạc. 11 giờ sau, trẻ đã không qua khỏi.
Thực hiện các xét nghiệm chuyên sâu, bác sĩ cho biết trẻ nhiễm virus CMV là nguyên nhân dẫn đến tử vong. Mẫu máu của sản phụ cũng được xét nghiệm đối chứng, khẳng định nhiễm virus CMS trước khi chuyển dạ.
CMV (Cytomegalovirus) là virus phổ biến gây ra các bệnh nhiễm trùng như: Thủy đậu, giời leo, herpes… Loại virus này gây ra nhiều mặt bệnh cho nhiều lứa tuổi. Đa phần người nhiễm virus là những đối tượng bị suy giảm miễn dịch như trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, phụ nữ có thai…
Theo thống kê tại Hoa Kỳ, có khoảng 40-80% người lớn bị nhiễm CMV trước tuổi 40, tỷ lệ này ở các nước đang phát triển là 90%.
Video đang HOT
Lưng bệnh nhi với các mảng xuất huyết ngay sau khi chào đời
Cuộc sống cộng đồng và vệ sinh cá nhân kém là điều kiện thuận lợi cho sự lây truyền virus này. Đường lây truyền của virus là từ người sang người thông qua việc tiếp xúc với dịch cơ thể của người bệnh, bao gồm: Máu, nước bọt, nước tiểu, sữa, tinh dịch và lây truyền qua nhau thai khi người mẹ bị mắc.
Người nhiễm virus CMV thường không có biểu hiện nên rất khó phát hiện bệnh. Một khi cơ thể đã nhiễm CMV sẽ tồn tại trong cơ thể suốt đời.
Chu kỳ của CMV gồm giai đoạn ở thể ngủ và giai đoạn hoạt động trở lại. Khi cơ thể khỏe mạnh, CMV chủ yếu không hoạt động. Khi hệ miễn dịch bị suy giảm, CMV có thể tái hoạt động và gây ra bệnh lý cho cơ thể.
Nhiễm trùng CMV bẩm sinh có thể không có triệu chứng nhưng có thể gây sảy thai, thai chết lưu, hoặc tử vong sau sinh.
Một số biến chứng của virus gây nên đốm mảng xuất huyết trên da, gan to, lách to, vàng da, teo não và đầu nhỏ, chậm phát triển … Như trường hợp trên là một điển hình.
Mặc dù là virus phổ biến nhưng đến nay vẫn chưa có vắc xin và thuốc điều trị đặc hiệu cho người mắc CMV.
Do đó các bác sĩ khuyến cáo, khi mang thai, việc xét nghiệm máu chẩn đoán trước sinh là vô cùng cần thiết để phát hiện sớm CMV, từ đó bác sĩ sẽ có phương pháp điều trị phù hợp, hạn chế tình trạng lây nhiễm virus từ mẹ sang con trong quá trình mang thai.
Trẻ khỏe mạnh nhờ... đủ dinh dưỡng
Trẻ hay bị ốm, dễ mắc các bệnh nhiễm trùng là biểu hiện của hệ thống miễn dịch yếu và chế độ dinh dưỡng chưa tốt. Điều đó đồng nghĩa với việc trẻ có sức đề kháng tốt sẽ ít bị bệnh, cơ thể phát triển tốt cần có một chế độ dinh dưỡng đầy đủ, đa dạng, cân đối và hợp lý theo nhu cầu lứa tuổi.
Khi trẻ sinh ra cơ thể còn non nớt, hệ miễn dịch vẫn chưa được hoàn thiện, sức đề kháng còn kém. Những trẻ ở cùng một lứa tuổi, cùng một điều kiện chăm sóc và môi trường sống, khi phải đối diện với những tác nhân gây bệnh từ bên ngoài như dịch bệnh, thay đổi thời tiết... thì có kết quả khác nhau, có trẻ bị mắc bệnh, có trẻ lại không, đấy là do sự khác biệt về hệ thống miễn dịch của trẻ.
Khi hệ thống miễn dịch mạnh có thể làm giảm nguy cơ nhiễm virus và vi khuẩn, giúp cơ thể chống lại tác nhân gây bệnh, giảm bớt thời gian điều trị và tăng tốc quá trình phục hồi sau khi khỏi bệnh. Hệ thống miễn dịch được tạo thành từ một mạng lưới các tế bào, mô và cơ quan phối hợp với nhau tạo thành hệ thống phòng thủ của cơ thể chống lại các sinh vật truyền nhiễm, tác nhân gây bệnh. Tuy nhiên, hệ thống miễn dịch mạnh yếu khác nhau do các yếu tố như tuổi tác, thói quen ăn uống và lối sống.
Bổ sung dinh dưỡng cho trẻ
Một chế độ ăn uống đủ nhu cầu, cân bằng, giàu axit amin thiết yếu sẽ giúp trẻ tăng cường hệ miễn dịch. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự thiếu hụt protein hoặc axit amin trong chế độ ăn uống có thể làm suy giảm chức năng miễn dịch, giảm khả năng chống lại sự xâm nhập của vius, vi khuẩn gây bệnh.
Các amino acid được hấp thu trong cơ thể do protein cung cấp có vai trò hết sức quan trọng: Là thành phần chính của kháng thể giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn, thực hiện chức năng miễn dịch, đồng thời là thành phần của các men và các nội tiết tố rất quan trọng trong hoạt động chuyển hóa của cơ thể. Chế độ dinh dưỡng của trẻ qua các giai đoạn phát triển giúp tăng cường sức đề kháng như sau:
Nuôi con bằng sữa mẹ: Cho trẻ bú ngay sau khi sinh, bú hoàn toàn sữa mẹ trong 6 tháng đầu, cho trẻ bú đến 24 tháng tuổi hoặc lâu hơn và tiêm phòng là cách tốt nhất để bảo vệ sức khỏe cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ, sữa mẹ có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng với tỷ lệ cân đối phù hợp với hệ tiêu hóa và hấp thu của trẻ.
Sữa mẹ còn có kháng thể giúp trẻ tăng cường sức đề kháng chống lại các bệnh nhiễm trùng. Việc nuôi con bằng sữa mẹ sẽ giảm nguy cơ thiếu dinh dưỡng hoặc thừa dinh dưỡng, các bệnh mạn tính không lây khi trưởng thành, đặc biệt là bệnh lý tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường,...
Sữa mẹ là nguồn thức ăn tự nhiên tốt nhất cho trẻ dưới 6 tháng tuổi.
Ăn bổ sung đúng độ tuổi: Ăn bổ sung là hình thức bổ sung thêm thức ăn khác cho trẻ ngoài sữa mẹ. Theo khuyến nghị của Tổ chức Y tế thế giới, thời điểm cho trẻ ăn bổ sung là khi trẻ tròn 6 tháng tuổi (180 ngày), do nhu cầu của trẻ tăng cao sữa mẹ không đáp ứng đủ vì vậy cần bổ sung thêm thức ăn cho trẻ.
Không cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, khi trẻ ăn thiếu về số lượng và chất lượng, thiếu vệ sinh dẫn đến suy dinh dưỡng và bệnh tật. Giai đoạn cho trẻ ăn bổ sung đến khi cai sữa là thời kỳ đe dọa suy dinh dưỡng nhất đối với trẻ.
Ăn bổ sung là quá trình trẻ từ từ làm quen, tiếp xúc với các thức ăn như người lớn, đồng thời bú mẹ ngày càng ít hơn, quá trình bé chuyển dần từ thức ăn tinh (sữa mẹ) sang thức ăn thô (4 nhóm thực phẩm). Vì vậy, nguyên tắc cho trẻ ăn bổ sung là ăn từ ít đến nhiều, từ lỏng đến đặc.
Trong 6 tháng đầu trẻ được mẹ truyền kháng thể qua sữa mẹ, vì vậy trẻ ít bị bệnh. Sau 6 tháng tuổi trẻ dễ bị mắc bệnh, lượng kháng thể là do tự cơ thể trẻ đảm nhiệm, do vậy hệ miễn dịch của trẻ còn thiếu và yếu. Vì vậy bất kỳ một thức ăn bổ sung nào cho trẻ ăn cũng phải được bảo quản và chế biến đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm.
Bữa ăn bổ sung của trẻ, tùy theo độ tuổi phải đảm bảo cung cấp đủ các chất dinh dưỡng thiết yếu từ 4 nhóm thực phẩm: Nhóm glucid, protein, lipid, vitamin và chất khoáng. Cho ăn đủ nhu cầu, cân đối các chất dinh dưỡng giúp cho trẻ phát triển tốt, ngược lại nếu trẻ ăn thiếu hoặc dư thừa sẽ có nguy cơ bị suy dinh dưỡng thể nhẹ cân, thể thấp còi, thể thừa cân béo phì, đồng thời với chế độ ăn nhiều chất đạm, khiến hệ tiêu hóa phải làm việc mệt mỏi, dễ rối loạn tiêu hóa, gây phân sống, tiêu chảy...
Cho trẻ ăn như thế nào?
Chế biến thức ăn cho trẻ phải phù hợp theo từng lứa tuổi. Với trẻ dưới 12 tháng, các loại thức ăn cần xay thành bột, thái nhỏ, nghiền nát, nấu kỹ cho dễ tiêu. Khi trẻ trên 12 tháng và có đủ răng hàm cần cho trẻ ăn thô hơn để tập cho trẻ ăn nhai. Trẻ từ 6-7 tháng cho trẻ ăn thịt, trứng; từ 7-8 tháng tập cho trẻ ăn cá, tôm, cua, đậu đỗ, vừng, lạc...; từ 9 tháng có thể tập cho trẻ ăn tất cả các loại thức ăn giống người lớn.
Thức ăn phải được chế biến phù hợp với từng lứa tuổi.
Số bữa ăn của trẻ: Sau 6 tháng, trẻ bú mẹ là chính 1-2 bữa bột loãng và nước quả, có thể cho trẻ uống thêm sữa ngoài thay cho một bữa bột (150-200ml); từ 7-9 tháng, bú mẹ 2-3 bữa bột đặc (10%) nước quả hoặc hoa quả nghiền, từ 10-12 tháng, bú mẹ 3-4 bữa bột đặc (15%), hoặc cháo nước quả hoặc hoa quả nghiền.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sự thiếu hụt protein hoặc axit amin trong chế độ ăn uống có thể làm suy giảm chức năng miễn dịch, giảm khả năng chống lại sự xâm nhập của vius, vi khuẩn gây bệnh.
Chế độ ăn cho trẻ 1-2 tuổi: Tiếp tục cho trẻ bú mẹ, nếu mẹ không có sữa cho bé uống sữa ngoài 300ml-500ml/ngày, ăn 4 bữa cháo hoặc súp mỗi ngày, ăn quả chín theo nhu cầu của trẻ.
Chế độ ăn cho trẻ từ 2-3 tuổi: Chuyển từ chế độ ăn cháo sang ăn cơm nát, nhưng vẫn phải cho ăn thêm cháo mì, súp, phở và uống sữa, trẻ vẫn cần có chế độ ăn riêng.
Chế độ ăn cho trẻ từ 3-5 tuổi: Số bữa ăn hàng ngày giống như cho trẻ từ 2-3 tuổi (4 bữa) nhưng lượng ăn phải tăng lên. Ở lứa tuổi này nên cho trẻ ăn các món mà trẻ yêu thích. Tuyệt đối không nên cho trẻ ăn bánh kẹo, nước ngọt, quả chín ngọt trước mỗi bữa ăn.
Trẻ mẫu giáo và học sinh, cần ăn uống điều độ, đủ nhu cầu các chất dinh dưỡng theo từng lứa tuổi, nếu trẻ bị biếng ăn nên bổ sung thêm các loại thực phẩm giàu dinh dưỡng. Nên ăn nhiều quả chín, rau xanh.
WHO tiết lộ 6 kiểu người dễ mắc ung thư bậc nhất, nhấn mạnh những điều ai cũng cần làm để sớm phòng ngừa căn bệnh quái ác này Ung thư từ lâu đã là một căn bệnh gây ám ảnh cho toàn nhân loại và cách phòng ngừa đúng nhất chính là tự trang bị cho mình những kiến thức cần thiết về chúng. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ung thư là thuật ngữ chỉ nhóm bệnh lớn, có thể ảnh hưởng đến bất kỳ...