Mẹ GS Ngô Bảo Châu nói về người thầy
Từ hai năm nay nhiều lần tôi được hỏi cùng một câu hỏi là chúng tôi đã nuôi dạy Ngô Bảo Châu như thế nào để Châu thành đạt trong sự học, trong nghề nghiệp và trong cuộc đời.
Từ sâu thẳm trong suy nghĩ tôi luôn cảm nhận là ở Châu có sự hội tụ của nhiều may mắn, của ý chí cá nhân, và của những điều kiện khá thuận lợi về gia đình, xã hội và nhất là của môi trường giáo dục. Tôi nghĩ phần sau của câu trên đóng một vai trò rất quan trọng.
Thế hệ chúng tôi đến trường vào những năm 60 và 70 của thế kỷ trước, đó là những ngày tháng thật đặc biệt. Khi đó chúng tôi chưa đủ trưởng thành về đường đời và trí tuệ để hiểu đầy đủ là tại sao cuộc sống khi đó thật đẹp, thật dễ tin yêu.
Gia đình GS Ngô Bảo Châu tại Washington D.C. ( Ảnh: Tư liệu gia đình)
Gần đây tôi nhận được một lá thư rất cảm động của thầy giáo cũ, người đã từng dạy chúng tôi môn văn hồi phổ thông. Lúc đó thầy còn là một thầy giáo trẻ nhưng những bài giảng văn của thầy cũng là những bài giảng về cuộc đời thật hấp dẫn và lôi cuốn.
Giờ đây viết thư cho trò cũ thầy bày tỏ nỗi băn khoăn không biết mình có đúng không khi ngày ấy từ bục giảng thầy đã gieo vào những con tim tươi trẻ của chúng tôi một niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống. Chúng tôi, những cô cậu học trò Hà Nội bước vào tuổi hoa niên trước khi chiến tranh lan tới và sau đó là những ngày sơ tán ở nông thôn, rồi trưởng thành vào những năm sau giải phóng.
Cuộc sống đói khổ, thiếu thốn trăm bề. Nhưng niềm tin yêu cuộc sống từ các bài giảng của thầy đã đưa nhiều bạn trong chúng tôi chia tay Hà Nội, xa gia đình, rời bỏ ước mơ vào đại học lên đường đến những miền xa xôi, gắn bó với đời sống lao động chân tay suốt cả bảy tám năm trời, khó khăn lắm mới trở lại con đường học tập.
Từ đáy sâu lòng mình tôi muốn nói với thầy rằng, với thế hệ chúng tôi đấy chính là những ngày đẹp nhất của cuộc đời mình, chúng tôi không ân hận vì đã dễ tin.
PGS.Ts Trần Lưu Phan Hiền cùng GS Ngô Bảo Châu và các cháu
Video đang HOT
Dù rằng, tôi ở một hoàn cảnh không giống như nhiều người bạn cùng trang lứa, vì tôi là một cô gái Hà Nội, sinh ra trong một gia đình tiểu tư sản. Hồi ấy chữ tiểu tư sản cứ như một đám mây nặng nề bao trùm làm tôi khó thoát ra để có thể hòa nhập.
Nhưng sức mạnh của khát vọng được học, những xúc cảm thiêng liêng của mỗi người trước nguy cơ tồn vong của gia đình, của đất nước khi đối mặt với chiến tranh đủ sức để chúng tôi học tập và sống hết mình.
Giá như mà lúc nào cuộc sống cũng đẹp, cũng đơn giản để mà người ta sống vì nhau, vì người thân, vì bạn bè, vì đồng nghiệp, vì những số phận không gặp may mắn… Với chúng tôi hồi đó, cuộc sống thật đẹp bởi đơn giản chúng tôi tin là nó đẹp.
Tôi lập gia đình và sinh Châu trong chính quãng đời đẹp đẽ đó. Những tài năng khoa học Việt Nam được sinh ra thời đó còn có Đàm Thanh Sơn, Vũ Hà Văn… (chỉ hơn Châu vài ba tuổi).
Dù khác thế hệ nhưng có lẽ môi trường giáo dục của tôi và Châu không khác nhau mấy. Bạn bè tôi mỗi lần gặp lại đều nhắc chuyện học ngày xưa để rồi lấy làm lạ sao chúng tôi ngày ấy dễ dàng chấp nhận khó khăn thế? Sao đi học vui thế? Sao tình bạn bè – tình thầy trò sống mãi thế?
Hồi ấy, sau cải cách giáo dục lần thứ hai (1956) chương trình học chẳng thay đổi gì trong hàng chục năm. Chúng tôi học lại những cuốn sách giáo khoa cũ kỹ của các anh chị năm – bảy năm trước để lại.
Vậy mà chúng tôi vẫn lớn lên, vẫn trưởng thành, trở nên những người tử tế. Trong số các bạn tôi không nhiều người trở thành chính khách (mà hình như ngay cả hồi ấy chẳng ai mơ mình thành chính khách) nhưng thật nhiều bạn thành những nhà chuyên môn giỏi: Bác sĩ tim mạch nổi tiếng, kiến trúc sư tài năng, nhà toán học tầm cỡ quốc tế…
GS Ngô Bảo Châu và bố mẹ (Ảnh: Tư liệu gia đình)
Châu và bạn bè cùng trang lứa lớn lên trong hòa bình nhưng cũng như chúng tôi, Châu đã trải qua những năm tháng tuổi thơ ít biến động về cuộc sống vật chất và tinh thần, trong cái nôi học hành của những gia đình trí thức, được nhà trường và thầy cô chăm lo cho một cách vô tư, chân thành, ấm áp và tâm huyết.
Đó chính là bệ phóng cho Châu và các bạn trẻ đi lên, tiếp thu kiến thức khoa học hiện đại dễ dàng hơn khi được đào tạo ở các nước có nền giáo dục tiên tiến.
Hồi ấy chẳng ai nghĩ đến việc có thêm thu nhập. Các thầy đến tận nhà dạy Châu mà không bao giờ nhận lại chút đền đáp vật chất dù chỉ gói chè. Chúng tôi cũng không dám trái ý vì e ngại sẽ làm tổn thương lòng tự trọng, sự kiêu hãnh của các thầy.
Dù mấy chục năm trôi qua rồi nhưng tôi còn nhớ như in vẻ mặt hân hoan của các anh Phạm Ngọc Hùng, Lê Tuấn Hoa, Vũ Đình Hòa… khi chia sẻ với nhau về một cậu học trò giỏi toán là Châu.
Họ là bạn học và cùng nhau công tác ở Viện Toán. Bên cạnh công việc nghiên cứu, họ lấy việc truyền ngọn lửa tình yêu toán cho thế hệ đàn em làm vui.
Ai gặp được học trò giỏi là mách nhau để thay nhau đến dạy. Hồi ấy thang bậc giá trị sống khác hẳn, còn bây giờ – đồng tiền và quyền lực đồng nghĩa với sự thành đạt đang là lối nghĩ của không ít người.
Tôi tin vào luật đời có nhân, có quả. Nếu mình biết trân trọng những điều tốt đẹp từ cha mẹ, từ thầy cô thì những điều tốt đẹp như thế và hơn thế sẽ được truyền sang con cháu- những người thân thiết nhất của cuộc đời mình.
Với tâm niệm đó nên tôi không đòi hỏi gì nhiều ở cuộc đời mà cứ vui với những gì cuộc sống đã cho, và biết ơn cuộc sống với những người thầy, người bạn chân thành.
Tôi rất vui khi Châu chia sẻ với tôi là thích làm toán, cứ được làm toán mãi và có nhiều người cùng làm toán với mình là hạnh phúc lắm rồi. Bây giờ Châu lại có các em học trò có tài năng, yêu toán hơn vì song hành cùng anh Châu.
Thầy tôi dạy chúng tôi là “nói cho cùng, mình cũng chỉ là những giọt nước vô cùng nhỏ nhoi trong biển cả mênh mông của cuộc đời, sẽ không là gì cả trong sự mênh mông đó, nhưng hãy cố là giọt nước trong lành chứ không là giọt nước đục”.
(Tự sự của PGS.TS Trần Lưu Vân Hiền – mẹ GS Ngô Bảo Châu)
Theo Tiền Phong
Nhìn nhận lại môn lịch sử: Số liệu cần khách quan
Khi nói về các cuộc chiến, sách giáo khoa lịch sử đưa số liệu theo cách chỉ nói về tổn hại của phía bên kia. Lẽ ra điều này cần phải nhìn nhận thật khách quan cả hai bên.
Không nên đưa quá nhiều con số không cần thiết vào bài học giáo khoa môn sử trong khi vẫn đang hô hào cần giảm tải - Ảnh: Đào Ngọc Thạch
Cân nhắc khi đưa số thương vong
Cách đưa như vậy do từ lâu chúng ta ít quan tâm đến việc nói về sự hy sinh của chính mình. Tuy vậy, theo tôi, vẫn cần cân nhắc có nên đưa con số thương vong của cả hai bên sau mỗi trận đánh vào sách giáo khoa (SGK) hay không bởi điều quan trọng nhất của bài học vẫn là mỗi trận đánh mang lại điều gì cho chiến cục.
Chúng ta có thể đưa một vài con số để nói đến quy mô trận đánh, tác động của nó thế nào chứ không nên khơi sâu chuyện thương vong nếu không thực sự cần thiết. Như thế tránh được việc bắt học sinh phải nhớ quá nhiều con số trong khi chúng ta vẫn đang hô hào cần giảm tải. Chẳng hạn khi dạy về việc Hà Nội đánh B52, con số thương vong cần thiết đưa là số máy bay rơi vì điều đó quyết định chiến thắng của ta trong đấu tranh ngoại giao, dẫn đến Hiệp định Paris, tạo tiền đề quan trọng thống nhất đất nước. Cái đó quan trọng hơn bao nhiêu người chết bao nhiêu người bị thương.
Chỉ đưa thương vong của địch là cách tư duy cũ phải bỏ. Thương vong không nói lên tất cả. Có những trận đánh hy sinh rất lớn nhưng mang lại thành tựu rất cao. Có những trận hy sinh không nhiều nhưng cũng không mang lại thay đổi gì quan trọng trong cuộc chiến. Con số chỉ là một mặt của vấn đề mà có lẽ cũng hạn chế con số đi vì học sinh có thể đọc trong sách tham khảo.
Hướng tới sự hòa đồng
Về lâu dài, SGK nên theo xu thế của thế giới là tôn trọng lịch sử nhưng luôn coi lịch sử là điểm tựa. Cho nên các quốc gia có hệ lụy với nhau sau khi xảy ra chiến tranh luôn cần có những cuộc trao đổi về việc viết lịch sử. Ví dụ Hội Khoa học lịch sử Việt Nam và Hội Sử địa Pháp đã ngồi với nhau để rà soát lại SGK. Chúng tôi rà roát để lịch sử vẫn được ghi rõ mà không ảnh hưởng tới việc 2 quốc gia tiếp tục mở rộng quan hệ. Sau cuộc rà soát, SGK vẫn nói rõ về chính sách bóc lột thực dân, vẫn có chiến thắng Điện Biên Phủ. Học sinh Việt Nam vẫn hiểu những mốc lịch sử nhưng không vì thế mà thù ghét người Pháp, nước Pháp. Như thế, nói đúng lịch sử mà vẫn hướng được tới sự hòa đồng.
Lịch sử của chúng ta có đụng độ với nhiều quốc gia khác. Do đó, rất cần phải hướng tới sự hòa hợp. Trong xu hướng hòa nhập với thế giới, yếu tố gì tác động không tích cực tới quan hệ thì ta không nhắc tới. Nói như thế không có nghĩa là ta che giấu lịch sử. Lịch sử là cái đã qua, chúng ta không thay đổi được nhưng tương lai là cái chưa tới, ta có thể tạo dựng được.
Trong một hội thảo về vấn đề này với Nhật Bản, tôi đặt vấn đề cách lấp những hố sâu lịch sử ngăn cách 2 nước. Một là khỏa lấp, san bằng nó bằng sự lãng quên để đến với nhau. Cách thứ hai là vẫn để nguyên nhưng bắc cầu qua, ta vẫn nhìn thấy cái đó mà vẫn nhìn với nhau.
Theo thanh niên
Cần nhìn lại nguyên nhân dạy thêm Bạn đọc tiếp tục gửi về Tuổi Trẻ Online ý kiến của mình đối với việc "bắt dạy thêm như bắt trộm" ở một số tỉnh thành. * Tôi là một giáo viên dạy toán THPT đã hơn 20 năm, đã chứng kiến bao lần thay sách và cải cách giáo dục. Bản thân tôi không hề muốn dạy thêm, chỉ muốn dạy...