Lưỡng quốc khôi nguyên ví vua Thanh ‘ếch ngồi đáy giếng’
Bằng tài năng và trí tuệ, Nguyễn Đăng Cảo khiến triều đình nhà Thanh nể phục, phê tặng ông danh hiệu Khôi nguyên Bắc triều.
Theo Bắc Ninh dư địa chí của tác giả Đỗ Trọng Vĩ, Nguyễn Đăng Cảo còn có tên Đăng Hạo, người xã Hoài Bão, huyện Tiên Du (nay thuộc thôn Hoài Bão, xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh). Ông sinh năm Kỷ Mùi (1619), mất năm nào chưa rõ.
Từ khi còn nhỏ, Nguyễn Đăng Cảo đã nổi tiếng thông minh, đọc sách một lần có thể thuộc lòng, được gọi là thần đồng. Tính tình phóng khoáng, thích giao du đây đó, năm 28 tuổi, ông thi đỗ Hội nguyên, Đình nguyên, đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa).
Khoa thi này không lấy trạng nguyên và bảng nhãn. Ông là người đứng đầu trong số những người thi đỗ. Đến năm 1659, ông lại đỗ đầu khoa Đông các, được phong Đông các đại học sĩ.
Là người nổi tiếng cương trực, thẳng thắn, ông không được triều đình trọng dụng. Ông làm quan chưa đầy 3 năm thì bị bãi chức. Mỗi khi có sứ nhà Thanh sang hạch sách, gây khó dễ, vua Lê lại phải mời ông ra ứng đối. Tài năng đối đáp, văn chương sắc bén của ông làm sứ nhà Thanh nhiều phen bẽ mặt.
Đền thờ Nguyễn Đăng Cảo. Ảnh: Báo Bắc Ninh.
Theo sách Sứ thần Việt Nam của tác giả Nguyễn Lan Phương, có lần, sứ nhà Thanh sang Đại Việt. Khi đến Xương Giang, người này dừng lại, sai quân đưa đến triều đình ta một vuông gấm trên vẽ ba nét ngang rất lớn và nói: “Nếu Đại Việt không giải được, sứ đoàn sẽ không vào Thăng Long”.
Cả triều đình không ai hiểu ý sứ thần muốn gì, phải về Tiên Du, Bắc Ninh mời Nguyễn Đăng Cảo vào kinh giảng. Đăng Cảo nghe xong nói “cái trò đánh đố chữ nhỏ nhặt ấy có gì ghê gớm đâu”.
Sau đó, ông lấy bút quét một nét sổ trên giấy cho sứ triều mang về tâu vua, dặn cứ thế đưa cho sứ Thanh. Quả nhiên, sứ nhà Thanh rất phục và đi tiếp vào Thăng Long.
Nhà vua không hiểu ý của sứ thần ra sao, đồng thời cũng chưa biết vì sao Đăng Cảo viết vậy mà sứ nhà Thanh đồng ý vào Thăng Long, nên lại cho người về quê hỏi Đăng Cảo.
Ông trả lời sứ của triều đình rằng: “Ở trong sách kinh dịch tượng có quẻ ‘Càn’ là ba nét ngang, thêm một nét sổ thì thành chữ ‘Vương’. Họ muốn sang phong vương cho vua ta đó thôi”. Cả triều đình nghe ra, vô cùng nể phục Nguyễn Đăng Cảo.
Video đang HOT
Nhà vua thấy ông mẫn tiệp, liền cử làm chánh sứ sang Trung Quốc đáp lễ. Khi giáp mặt, thấy ông già cả, vua nhà Thanh liền ra câu đối: “Lão khuyển lạc mao, do hướng đình tiền phệ nguyệt”. Nghĩa là: Chó già rụng lông thấy trăng còn đứng ra sân mà sủa.
Biết đó là ý miệt thị của vua nhà Thanh, Nguyễn Đăng Cảo liền đối lại: “Tiểu oa đoản cảnh, mạn cư tỉnh để khuy thiên”. Nghĩa là: Ếch con ngắn cổ, cũng dám ngồi đáy giếng coi trời bằng vung.
Vế đối có nội dung ngang tàng, ý mỉa mai, xem thường cả triều đình lẫn vua Thanh không hiểu biết, bụng dạ hẹp hòi. Đây là vế đối quá chuẩn, thể hiện được trí tuệ và bản lĩnh của người Việt. Từ đó, vua quan nhà Thanh không dám coi thường sứ nước Nam nữa. Vua Thanh còn sai quan tiễn sứ đoàn ra về rất trịnh trọng.
Tranh vẽ về Nguyễn Đăng Cảo. Nguồn: Sách Sứ thần Việt Nam.
Lần khác, nhà Thanh sai sứ sang sách nhiễu. Triều đình bí quá phải triệu hồi ông cung tiếp. Sứ Thanh đòi nộp một cái giường đồng, 100 ông già đầu bạc, 100 người con gái tóc dài. Nghe xong, ông cười to bảo: Nộp cho họ 100 gốc lúa, 100 thúng muối, 100 con dê cái.
Năm 1653 đời vua Lê Thần Tông, nhà Thanh lại sai sứ mang chiếu chỉ sang cùng 10 vuông gấm, gói các loại mũ xiêm cùng quần áo. Vua Lê không hiểu ý định của sứ thần, lại phải mời ông về kinh.
Ông xem xong các đồ vật rồi tâu lên vua rằng đây là trang phục của người Trung Hoa, họ gửi sang tỏ ý muốn ta phải theo thiên triều, lệ thuộc vào họ, ăn mặc theo nhà Thanh, phải cắt tóc để đuôi sam, khác với nhà Minh. Ta nên trả lại bộ quần áo này và đưa lại cho họ y phục dân tộc để họ thấy ta không chịu chấp nhận.
Vua liền cử ông lên biên giới tiếp và tìm cách đối phó với sứ thần nhà Thanh. Ông cho lấy một tấm lĩnh gói váy, áo, yếm… để trong hòm kín đẹp, sai quân lính mang vào nhà công cán cho sứ Thanh. Sau đó, ông đã phản bác ý định của vua Thanh.
Ông còn làm bài “giải chư hầu” phản bác những nhận định sai lầm về các nước chư hầu gửi sứ Thanh mang về dâng vua, khẳng định chủ quyền dân tộc.
Vua Thanh xem xong không giấu nổi sự khâm phục liền phán “Địa linh, nhân kiệt đời nào cũng có, nhưng vượt trội hơn cả từ nay về sau chi có một Đăng Hạo”.
Tương truyền Nguyễn Đăng Cảo thi 3 kỳ ở huyện đều đứng đầu. Khi về tỉnh dự thi vấn đáp, quan trường thi thấy ông vào không quỳ lạy mà chỉ chào, tỏ vẻ không hài lòng, đã dùng những câu hỏi hiểm hóc nhất để hỏi. Đăng Cảo đều trả lời trôi chảy.
Sau đó, quan Tả Tham chính vẫn còn chất vấn thêm. Nguyễn Đăng Cảo bèn nói: “Theo điều lệ của triều đình chỉ được hỏi 6 câu, các ông đã hỏi đến 12 câu rồi, tôi biết nhưng không trả lời nữa”.
Quan Hiến sát thấy vậy bèn nói nhỏ với viên quan Tham chính rằng đây là nhân tài.
Theo Zing
Vị trạng nguyên đầu tiên được dựng bia tiến sĩ ở Văn Miếu
Nguyễn Trực - trạng nguyên đầu tiên được khắc tên trên bia tiến sĩ - có học vấn uyên thâm, kiến thức sâu rộng, giữ nhiều chức vụ quan trọng nhưng luôn tuân theo đạo lý "tôi hiền".
Theo Việt Nam văn hóa sử cương của học giả Đào Duy Anh, sau khi đánh được quân Minh, lập nhà Hậu Lê, vua Lê Thái Tổ lưu tâm chấn chỉnh việc học. Ông mở khoa Minh kinh, bắt các quan văn võ từ tứ phẩm trở xuống thi kinh sử và vũ kinh, đồng thời khuyến khích những người sống ẩn dật trong chiến tranh ứng thí để chọn nhân tài.
Tuy nhiên, đây chỉ là phương sách lâm thời sau cuộc loạn. Đến đời Lê Thánh Tông, triều đình mới noi theo chế độ nhà Trần mà chỉnh đốn việc học, mở rộng nhà Thái Học ở phía sau Văn Miếu. Vua định lại phép thi hương, hội, đình và đặt lệ 3 năm mở một khoa thi.
Năm 1484, vua Lê Thánh Tông cho dựng bia tiến sĩ trong Văn Miếu, khắc tên những người đỗ tiến sĩ từ khoa thi 1442.
Nguyễn Trực là trạng nguyên đầu tiên của nhà Hậu Lê, đồng thời là người đầu tiên có tên trên văn bia.
Văn bia khắc tên Nguyễn Trực - trạng nguyên đầu tiên của triều Hậu Lê, trong Văn Miếu Quốc Tử Giám. Ảnh: Wikipedia.
Theo Danh nhân Hà Nội của giáo sư Vũ Khiêu, Nguyễn Trực (1417 - 1473), tự Công Đĩnh, hiệu Sư Liêu, là người làng Bối Khê, Thanh Oai, Hà Tây. Ông xuất thân trong gia đình khoa cử, ông nội là tiến sĩ Nguyễn Bính, cha là tiến sĩ Nguyễn Thì Trung.
Thuở nhỏ, Nguyễn Trực đã nổi tiếng thông minh. 8 tuổi, ông bắt đầu đi học. 12 tuổi, tài văn thơ của ông khiến nhiều người nể phục.
Năm 1434, Nguyễn Trực tham gia kỳ thi Hương và đỗ đầu khi mới 17 tuổi.
Năm 1442, ông thi Đình, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ Đệ nhất danh (Trạng nguyên). Ông được nhà vua ban sắc "Quốc Tử Giám thi thư" và ban thưởng Á Liệt Khanh, đứng đầu trong số 33 tiến sĩ cùng khóa. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, vua ban mũ áo Trạng nguyên cho người đỗ cao nhất. Vua Lê Thái Tông rất tán thưởng vị tiến sĩ trẻ tuổi.
Nhưng chẳng bao lâu sau, hay tin cha mất, tân trạng nguyện phải về quê chịu tang. Dưới thời vua Lê Nhân Tông, Nguyễn Trực được trọng dụng. Vua ban chức Triều nghi đại phu Hàn lâm viện học sĩ Vu kỵ úy. Ít lâu sau, ông được tuyên triệu về triều, liên tục nắm giữ những chức vụ quan trọng.
Năm 1454, mẹ mất, Nguyễn Trực về quê chịu tang. Nghe danh tiếng ông, nhiều người đến bái sư. Sau này, nhiều học trò ông đỗ đạt, cống hiến cho đất nước.
Năm 1457, triều Minh cử sứ thần Hoàng Gián sang Đại Việt. Vua Lê Nhân Tông tuyên triệu Nguyễn Trực, lúc này đã mãn tang mẹ, về triều. Tài đối đáp của ông làm rạng danh nước nhà.
Theo Kho tàng các ông trạng Việt Nam: truyện và giai thoại của Vũ Ngọc Khánh, trong một lần đi sứ Trung Quốc, gặp đúng dịp thi Đình, muốn cho triều đình nhà Minh biết tài học của dân ta, Nguyễn Trực cùng phó sứ Trịnh Khiết Tường ứng thi. Tài văn chương của hai ông bộc lộ rõ. Nguyễn Trực một lần nữa đỗ Trạng nguyên trong khi Trịnh Khiết Tường đỗ Bảng nhãn.
Triều đình và dân chúng triều Minh thán phục tài năng của vị trạng nguyên người Đại Việt, tôn xưng ông là Lưỡng quốc trạng nguyên.
Trong cuốn Lưỡng quốc trạng nguyên Nguyễn Trực, Nguyễn Hữu Hoa ghi: "Trở về nước, cả hai ông đều được vua phong chức Thượng thư và ban thưởng tám chữ vàng: "Thành công danh Nam Bắc triều biên ngã" (Công danh cả hai nước đều hoàn thành).
Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Trực không chỉ nổi tiếng với tài văn thơ, hiểu biết sâu rộng, mà còn là vị quan khiêm nhường, liêm khiết.
Sử sách ghi lại, trong khoa thi Đình năm 1442, với đề thi "Luận về phép trị nước của các vương triều", Nguyễn Trực khẳng định: "Vua sáng tôi hiền thì nước sẽ thịnh, vua không sáng tôi không hiền thì nước sẽ suy vong".
Những năm làm quan, cống hiến cho đất nước của Nguyễn Trực chứng minh rằng, ông không chỉ nắm rõ mà còn một mực tuân theo đạo lý "tôi hiền".
Ngày nay, vị Lưỡng quốc trạng nguyên lỗi lạc này được thờ tại Từ đường Trạng nguyên Nguyễn Trực - di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc gia, ở làng Bối Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Theo Zing
Lưỡng quốc trạng nguyên và câu đố chết người Khi đi sứ, Mạc Đĩnh Chi bị triều đình nhà Nguyên coi thường. Tuy nhiên, nhờ tài ứng đối nhanh nhạy, ông không những thoát chết mà còn được phong "Lưỡng quốc trạng nguyên". "Há rằng trống rỗng bất tài Thuyền quyên lắm kẻ lỡ thời thương thay. Nếu ta giữ mực thẳng ngay. Mưa sa gió táp xem nay cũng thường". Những...