Loạn trường đại học: Chỉ tiêu dân trí hay nhu cầu nhân lực?
Việt Nam hiện nay có bao nhiêu trường đại học? Không mấy ai trả lời được chính xác, có thể là 450 hay 470, và con số này luôn bị thay đổi vì một tháng có thêm hai trường ĐH mới, một năm có thêm ít nhất là 17-20 trường. Con số này cũng không chính xác nốt.
Đặc biệt là trong khoảng thời gian gần mười năm trở lại đây việc lập đại học trở thành phong trào rầm rộ như thành lập hợp tác xã nông nghiệp trước đây.
Chúng ta đang chứng kiến một thảm cảnh chỉ có duy nhất ở Việt Nam, là các trường cạnh tranh nhau không phải bằng chất lượng mà bằng các mánh lới chèo kéo người học, tung ra các chiêu thức hệt như các quán ăn đường phố như tặng tiền, đồng phục, hạ điểm đầu vào đến mức 7 điểm cũng trở thành sinh viên… Các chuyên gia nước ngoài họ hoàn toàn không hiểu điều gì đang xảy ra với một dân tộc có tuổi đời khởi xướng đại học vào loại lâu đời nhất nhì trên thế giới.
Việc đào tạo là một lẽ, nhưng quan trọng hơn là làm sao phân bổ đến được đúng nơi có nhu cầu.
Trước đây đại học tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn thì nay tỉnh nào cũng có đại học (có lẽ trừ Dăk Nông mới thành lập là chưa có) có tỉnh đến bốn, năm trường đại học. Có trường mới toanh còn thơm mùi sơn nước, nhưng số trường nâng cấp từ cao đẳng, trung cấp, trường nghề, trường chính trị, trung tâm đào tạo thường xuyên lên đại học thì nhiều vô kể, nhiều đến mức có những trường đại học mà người có thâm niên giáo dục 30 – 40 năm khi được hỏi ngơ ngác không biết nó nằm ở đâu, đào tạo lĩnh vực nào, ai là hiệu trưởng.
Không biết có phải vì lý do dễ kiếm ăn hay không mà việc lập đại học thành một phong trào mạnh mẽ, không chỉ tỉnh huyện, bộ ngành mà cả các tập đoàn kinh tế, công ty đều nhảy vào cuộc. Nếu một tổng công ty xây dựng, bất động sản, truyền thông, công nghệ thông tin, khai thác khoáng sản có máu mặt mà chưa có đại học thì chưa được coi là sang trọng. Nếu một ngày nào đó đại học Việt Nam lập lại trật tự nhờ có quy luật “mạnh được, yếu thua” và được điều tiết bởi “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường thì cũng không phải là quá tệ, nhưng như thế thì thật là quá nhẫn tâm với những người nông dân cắm mặt xuống bùn kiếm từng đồng xu lẻ mà đặt trọn niềm tin vào những trường đại học dở trường dở chợ như thế.
Tại sao lại phải cho ra nhiều trường đại học ồ ạt như thế? Chúng ta thử lý giải hiện tượng này và xem xét hệ quả của nó ra sao?
Cái lý của người cấp phép là làm sao trong thời gian ngắn phải nâng số sinh viên trên 10.000 dân ngang bằng với các nước tiên tiến xung quanh, như thế mới đáp ứng được mục tiêu năm 2020 trở thành nước công nghiệp, điều này cũng diễn ra trong việc đào tạo tiến sĩ làm sao phủ kín trong các cơ quan công quyền và giáo dục với chỉ tiêu đào tạo mới là 20.000 tiến sĩ. Hiện nay số sinh viên/10.000 dân của Việt Nam là khoảng 200 đến 220, trong khi các nước như Thái Lan, Philippines, Malaysia là 400 đến 450, Hàn Quốc và Singapore là 500 đến 600. Bộ Giáo dục và đào tạo muốn nâng số sinh viên/10.000 dân bằng Thái Lan, Malaysia hôm nay là 400 vào năm 2025. Đó là một ý tưởng hay, nhưng chưa chắc đã hợp lý. Bởi lẽ:
Video đang HOT
Giống như cơ thể con người, cơ thể kinh tế của một quốc gia chỉ có thể dung nạp một lượng nhân lực có trình độ ở một mức độ nào đó. Việc sản xuất ra bao nhiêu kỹ sư, cử nhân, kiến trúc sư, nhà quản lý là tuỳ thuộc vào nhu cầu thực tế của xã hội trong mỗi giai đoạn chứ không phải xuất phát từ việc nhìn xem các nước láng giềng và lại càng không nên xuất phát từ trí tưởng tượng bay bổng của một vị lãnh đạo tỉnh (cho dù là với động cơ cực kỳ trong sáng) rằng tỉnh kia có đại học văn hoá, đại học công nghệ thông tin thì có lý do gì mà mình lại không có, trong khi đào tạo ra không biết để làm gì. Thuốc bổ là cần, nhưng uống nhiều quá cũng sinh bệnh mà chết.
Việc đào tạo là một lẽ, nhưng quan trọng hơn là làm sao phân bổ đến được đúng nơi có nhu cầu. TP.HCM có đến hàng trăm, thậm chí là cả ngàn bác sĩ tốt nghiệp nhưng có đi làm hết không? Nhiều ngành khác như sư phạm, hành chính, các ngành khoa học xã hội tốt nghiệp xong cứ quanh quẩn ở 14 quận nội thành TP.HCM. Tình trạng này cho thấy xã hội không thiếu nhân lực trình độ cao, có nhiều ngành thừa rất nhiều mà do chưa có chính sách tốt cho nên không thu hút được nhân lực và như vậy mở ra càng nhiều trường đại học đồng nghĩa với việc hàng tồn kho ngày càng nhiều, lãng phí cho xã hội và cho chính mỗi gia đình.
Cơ thể kinh tế của một quốc gia chỉ có thể dung nạp một lượng nhân lực có trình độ ở một mức độ nào đó. Việc sản xuất ra bao nhiêu kỹ sư, cử nhân, kiến trúc sư, nhà quản lý là tuỳ thuộc vào nhu cầu thực tế của xã hội trong mỗi giai đoạn chứ không phải xuất phát từ việc nhìn xem các nước láng giềng để phấn đấu cho bằng.
Không ít những vị chức sắc cho rằng việc đào tạo ra nhiều cử nhân, kỹ sư nếu không kiếm được việc làm thì bề nào cũng vẫn tốt, vì như thế là góp phần nâng cao dân trí, đào tạo con người. Điều này không sai, nhưng trình độ phát triển và mức sống của đại đa số người dân chưa đến mức “học chơi”.
Lên đại học quá dễ dù “phải theo tiêu chuẩn”, nhưng để có những tiêu chuẩn thì không có gì khó, chỉ cần một cô thư ký ngồi một buổi trước máy tính là sẽ có tất tần tật. Vậy là chẳng mất gì, chỉ cần tăng thêm một năm nếu là cao đẳng ba năm, còn đội ngũ thầy cô giáo, cơ sở vật chất vẫn vậy (nếu thiếu thì thuê mượn đỡ ở đâu đó), có khác chăng là thay cái bảng treo ở trước cổng trường. Nhưng vấn đề không đơn giản như thế. Khi các anh, chị học trung cấp, cao đẳng thì còn chấp nhận các công việc phổ thông, kể cả việc lao động nặng nhọc, chân lấm tay bùn… nhưng khi có tấm bằng đại học, giờ là “ông kỹ sư, bà cử nhân” giải quyết được sĩ diện thì bắt đầu chê việc. Ở một tỉnh nọ của đồng bằng sông Cửu Long có trường trung cấp tài chính, khi xưa tốt nghiệp xong người học vui vẻ về xã, huyện làm việc nhưng nay lên đại học chả ai chịu về xã nữa. Đó là hậu quả của việc gán nhãn mới màu mè chất lượng cao lên chai nước mắm có độ đạm vẫn thế. Nếu đọc trong bất kỳ lời giới thiệu nào của các trường dân lập đều có câu “văn bằng cấp nằm trong hệ thống văn bằng của Bộ Giáo dục và đào tạo và Nhà nước Việt Nam” như là một sự bảo chứng cho nhãn hiệu.
Rất nhiều vị quản lý nhà nước cho rằng việc bùng nổ đại học rồi dẫn đến phá sản như đã diễn ra trong thị trường bất động sản là điều tốt và là cơ hội thanh lọc đại học. Đúng là điều này đang xảy ra với nhiều khoa bị giải thể vì không có sinh viên, nhưng không dễ gì với trường. Việc lập ra đã khó, nhưng giải thể có khi còn khó hơn, bởi đó là “tâm huyết” là “lòng yêu dân tộc” của các vị sáng lập và càng khó hơn vì động chạm đến lợi ích nhóm, thậm chí lợi ích gia đình. Thực tế không ai mở trường học với tuyên ngôn để kiếm tiền mà là phục vụ đất nước, nhưng có một thực tế ai cũng thấy một thời kinh doanh giáo dục là kinh doanh an toàn nhất, vốn ít nhất mà lời cũng bộn nhất. Chỉ cần mướn được mặt bằng là có thể chiêu sinh được, thầy đi mời bên ngoài miễn trả giá cao hơn công lập sau đó phát triển với phương châm “lấy mỡ nó rán nó”.
Vào những năm 60 của thế kỷ trước, khi bà nội tôi còn sống, bà tôi vẫn làm bánh cuốn ra chợ phiên đầu làng bán, mỗi phiên bà chỉ làm có chừng 30 cái, tôi hỏi sao bà không làm nhiều hơn, bà nói ở cái làng này những người có được một, hai xu mua bánh cuốn đâu có bao nhiêu mà làm nhiều, làm nhiều lại ế mang về. Những người nông dân ở cái làng quê bé tẹo chả được học quy luật cung cầu thế mà họ cũng biết sản xuất ra cỡ nào thì vừa, sao quan chức chúng ta nhiều tiến sĩ, giáo sư thế mà vẫn tính hớ mới lạ chứ.
Ai là người chịu trách nhiệm trả lời trước nhân dân? Rồi ai đó sẽ nói rằng lịch sử sẽ phán xét? Nhưng than ôi không phải đợi đến mai sau mà ngay hôm nay con cháu chúng ta đang phải trả giá cho những quyết định “khó hiểu” này.
Theo SGTT
GS Mỹ: VN cần tạo thế chân kiềng để đánh thức nhân lực, nhân tài
"Tôi không phải là chuyên gia về Việt Nam nhưng tôi biết đất nước các bạn có những bước tiến dài, nhất là kinh tế. Tuy nhiên, để khẳng định mình thì các bạn cần phải cơ cấu lại nhân sự có thế chân kiềng: Nhà nước - doanh nghiệp - giáo dục.
Đó là lời khẳng định của giáo sư Dave Ulrich (Đại học Michigan, Mỹ) tại hội thảo "Tư duy lại nhân lực và nhân tài" (Rethinking HR & Talent). Hội thảo do trường Doanh nhân PACE tổ chức ngày 29/9 tại TPHCM, thu hút hơn 500 nhà lãnh đạo, doanh nhân, học giả, nhà nghiên cứu... trong và ngoài nước tham dự.
Giáo sư Dave Ulrich đang chia sẻ kinh nghiệm quản lý nhân lực tại hội thảo.
GS Dave Ulrich mở đầu bài thuyết trình của mình bằng việc phác họa những thực tiễn cạnh tranh mới đang diễn ra trên khắp toàn cầu. Theo ông, Việt Nam với vị trí là một trong số 11 quốc gia mới nổi kế tiếp (theo sau các nước thuộc khối BRIC gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc...), hơn bao giờ hết cần phải đặt ra câu hỏi "Lợi thế cạnh tranh của quốc gia sẽ đến từ những nguồn nào?" để có thể hoạch định một chiến lược phát triển hiệu quả cho mình.
Ông cũng cho rằng trong bối cảnh này, có thể thấy rằng vấn đề nhân lực và nhân tài chính là một nguồn "tài nguyên" quan trọng góp phần tạo ra lợi thế cạnh tranh bền vững cho quốc gia và doanh nghiệp bên cạnh các lợi thế khác vẫn thường được nhắc đến như chiến lược, tài chính, công nghệ...
Theo GS Dave Ulrich, đây không phải là một câu chuyện quá mới mẻ với quốc gia cũng như doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có thể "đánh thức" được nguồn tài nguyên vô cùng to lớn ấy, cần phải "định nghĩa lại" nhân lực và nhân tài.
Ai sẽ được gọi là "nhân tài"? Làm thế nào để xác định đúng và khơi dậy được nguồn tài nguyên ấy? Đầu tư cho nhân tài là cần thiết, nhưng làm thể nào để đầu tư đúng và đo lường được hiệu quả của việc đầu tư cho yếu tố vô hình này?
GS Dave Ulrich nhấn mạnh, để đánh thức được nhân tài, nhân lực, Việt Nam cần có sự phối hợp theo thế chân kiềng giữa Nhà nước - doanh nghiệp - giáo dục; xúc tiến các tổ chức, chương trình nghị sự quốc gia về nhân lực...
Trong suốt bài trình bày của mình, GS Dave Ulrich đã lần lượt đưa ra những góc nhìn của mình cho những câu hỏi này, những câu hỏi mà ông cho rằng cần được đặt ra và trả lời thấu đáo để câu chuyện nhân tài không chỉ dừng lại ở những khẩu hiệu như "hiền tài là nguyên khí quốc gia" hay "nhân tài là tài sản quý giá nhất của tổ chức"...
Một quan điểm mới mẻ mà ông đưa ra trong hội thảo, đó là đã đến lúc các tổ chức, các doanh nghiệp cũng cần "định nghĩa lại" vai trò của mình nếu muốn cạnh tranh hiệu quả bằng nguồn lực nhân tài. Cụ thể là, nhân tài chỉ có thể phát triển được và đóng góp được cho tổ chức và xã hội khi và chỉ khi họ được "sống" trong một môi trường mà ở đó, họ tìm thấy được lẽ sống và ý nghĩa của cuộc đời, của công việc mình làm.
"Tài năng là nguồn lực giúp chúng ta tạo ra những đặc thù thú vị. Trong bóng đá, dù có vua phá lưới nhưng chưa chắc đội đó đã vô địch. Chỉ 20% đội có vua phá lưới thì vô địch. Vì thế bên cạnh tạo ra tài năng, cần phải xây dựng một nguồn nhân lực tốt, có kỹ năng làm việc theo nhóm và một văn hóa doanh nghiệp để nhân tài và nhân lực cống hiến", GS Dave Ulrich nói.
Đông đảo doanh nhân Việt Nam tham dự hội thảo và đặt câu hỏi với giáo sư Dave Ulrich.
Một tổ chức có khả năng làm được điều trên, theo ngôn từ của GS Dave Ulrich , được gọi là "Tổ chức viên mãn".Ông cũng đưa ra mô hình gồm các câu hỏi thiết yếu giúp các nhà lãnh đạo xây dựng tổ chức của mình thành "tổ chức viên mãn".
GS Dave Ulrich đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của nhà lãnh đạo trong chiến lược "đánh thức" nguồn tài nguyên nhân lực và nhân tài. Theo ông, tổ chức cần nhiều "năng lực lãnh đạo" hơn là "vị trí lãnh đạo". Nhà lãnh đạo chỉ có thể tạo được "thương hiệu lãnh đạo" cho mình từ khả năng biến những mong mỏi, kỳ vọng của xã hội thành những hoạt động cụ thể trong chính tổ chức của mình.
Trả lời câu hỏi của một doanh nhân về vấn đề Việt Nam có lợi thế nào so với Trung Quốc, ông Dave Ulrich cho biết: "Đừng nghĩ nước nhỏ là yếu. Nhỏ mà lanh lợi thì thành công. Việt Nam nên học mô hình của Singapore. Đảo quốc nhỏ này không có tài nguyên nhưng có sự kết hợp chân kiềng. Doanh nhân Singapore luôn học hỏi và cầu tiến. Thế hệ lãnh đạo trước luôn giúp thế hệ lãnh đạo sau. Năng lực lãnh đạo giúp họ thành công".
Diễn giả Dave Ulrich hiện là giáo sư của Đại học Michigan (Mỹ), người được coi là "bậc thầy" thế giới về lĩnh vực nhân sự, một trong những "bộ óc" quản trị có ảnh hưởng nhất thế giới. Năm 2010, ông đã được trao tặng giải Nobel Colloquia dành cho những tên tuổi dẫn dắt nền tưởng kinh tế và và kinh doanh. Những tư tưởng, lý thuyết được "khai sinh" bởi GS Dave Ulrich và các cộng sự của ông như "Mô hình 4 vai trò của Nhân sự" ("HR's 4 Roles Model"); "Thương hiệu lãnh đạo" (Leadership Brand) hay "Lý thuyết nhân tài 3C"... được xem là đã góp phần tạo nên những chuyển đổi quan trọng của nền quản trị và ngành nhân sự thế giới cũng như có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều nhà lãnh đạo.
Theo DT
Chấn hưng giáo dục để thông thế "tắc"... nhân tài Chấn hưng giáo dục là điều kiện quyết định để có thể khuyến khích, trọng dụng nhân tài. Đó là ý kiến được thống nhất rút ra sau hộo "Nhân tài với thịnh suy đất nước" do TƯ Hội khoa học t triển nguồn nhân lực, nhân tài VN tổ chức hôm qua 27/9. "Nhân thì có, còn tài thì ít" Đề cập...