Loại bỏ đặc quyền sẽ xóa được ‘lạm phát’ giáo sư
Trở thành giáo sư mức lương tăng gần gấp đôi, nhiều quyền lợi khác cũng tăng nên nhiều người tìm mọi cách đạt được.
TS Trịnh Thái Bình đề nghị giao việc xét công nhận, bổ nhiệm giáo sư về các trường đại học, gắn trách nhiệm với trường. Ảnh minh họa.
TS Trịnh Thái Bình, chuyên gia nhân sự tại Paris (Pháp) quan điểm về việc xét công nhận đạt chuẩn giáo sư, phó giáo sư ở Việt Nam.
Gần đây những lùm xùm xung quanh việc xét công nhận giáo sư đã làm dấy lên nhiều tranh luận. Mọi người đều công nhận rằng có nhiều giáo sư, phó giáo sư là tốt cho đất nước nếu nó thực chất và hiệu quả. Vậy làm thế nào để có thực chất và hiệu quả?
Đây là vấn đề của quản lý con người và chính sách. Nếu thay đổi chính sách quản lý con người thì mọi việc sẽ thay đổi. Tôi xin được đóng góp một vài ý kiến trong vấn đề này.
Công nhận đạt chuẩn chức danh giáo sư – nên giao về các đại học
Hiện nay quy trình công nhận và bổ nhiệm tưởng như rất kín kẽ, chặt chẽ nhưng nhiều nhà khoa học đã chỉ ra những điểm bất cập ở đó mà trong bài này tôi không nhắc lại. Tôi chỉ đóng góp rằng Bộ Giáo dục và Đào tạo nên phân cấp theo lộ trình của tự chủ đại học. Trong đó Bộ nên xây dựng các tiêu chí chuẩn, thực chất, tiếp cận với các nước phát triển. Vấn đề xem xét, chấm điểm, công nhận và bổ nhiệm gắn với sử dụng nên giao lại cho các trường.
Hiện nay, Hội đồng cấp Nhà nước vẫn quản nhưng xem xét, chấm điển thì lại phân cấp dẫn đến chất lượng yếu kém và tiêu cực nếu có thì ở cấp dưới, nhưng trách nhiệm và búa rìu dư luận lại do Bộ gánh chịu. Ở đây, có người sẽ lo ngại nếu giao cho các trường thì sẽ dẫn đến tràn lan, khó quản lý. Tuy nhiên, nếu gắn việc xét đạt, công nhận đi đôi với sử dụng, giao trách nhiệm và đãi ngộ thì mọi việc sẽ khác.
Thay đổi việc sử dụng và đãi ngộ đối với những người có học hàm
Một trong những lý do chạy đua học hàm dẫn đến chưa minh bạch là do việc sử dụng và đãi ngộ chưa gắn với thực tế công việc. Việc những người có học hàm đương nhiên có đặc quyền đặc lợi dẫn đến tiêu cực và không thực chất.
Giải pháp thứ nhất là cần thay đổi việc công nhận, bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư. Trước hết, nên khẳng định giáo sư là một chức danh khoa học, chứ không là phẩm hàm. Chức danh khoa học gắn với chức danh trong công việc. Đã là chức danh thì bổ nhiệm có thời hạn và được hưởng chế độ theo chức danh đó. Hết chức danh công việc và chức danh khoa học thì hết quyền lợi.
Giáo sư không phải là chức danh cả đời, đến lúc chết. Những giáo sư không thực chất, không có cống hiến sẽ không được tiếp tục bổ nhiệm. Người không còn làm khoa học và giáo dục, hết hời gian bổ nhiệm thì không còn là giáo sư nữa. Điều này tránh được tình trạng làm quản lý hành chính hay giữ chức vụ chính quyền cũng là giáo sư.
Video đang HOT
Giải pháp thứ hai là cần thay đổi việc tăng lương cho người có học hàm. Thực tế do chỉ cần đạt được học hàm là đương nhiên mức lương được tăng lên gần gấp đôi, chế độ từ giảng dạy và nhiều quyền lợi khác tăng lên khiến nhiều người cố sống cố chết tìm mọi cách đạt được học hàm mà lại thiếu thực chất.
Thực tế cho thấy tuy có nhiều giáo sư, phó giáo sư, nhưng chất lượng khoa học đóng góp cho đời sống cũng như số lượng công bố quốc tế, sáng chế của Việt Nam rất thấp. Nhiều người sau khi đạt được học hàm để có được mức lương cao trọn đời thì cũng không có sách, không có bài báo, cũng chẳng có đóng góp gì.
Người được phong giáo sư, phó giáo sư chất lượng giảng dạy, nghiên cứu vẫn thế, trách nhiệm cũng không thay đổi mà lương lại nghiễm nhiên được tăng lên, hưởng thụ đến già. Mâu thuẫn giữa thụ hưởng và đóng góp của những người có học hàm chính là căn nguyên gây ra sự phản ứng của xã hội.
Nếu bỏ đặc quyền và tăng trách nhiệm của người có học hàm thì mọi việc sẽ thay đổi. Nên bỏ tăng lương theo học hàm và giao cho các trường tự chủ vấn đề này. Các trường đại học được giao xem xét, công nhận và bổ nhiệm vị trí giáo sư, phó giáo sư gắn với vị trí việc làm quản lý trong trường (và chịu trách nhiệm trước Bộ), tự chủ việc tăng lương, phụ cấp cho người đó. Khi không còn là giáo sư thì hết bổng lộc.
Làm được điều này thì các hội đồng cơ sở sẽ phải cân nhắc kỹ trước khi xem xét, công nhận và bổ nhiệm vì sẽ phải tự lo trả lương. Nếu công nhận và bổ nhiệm tràn lan, không có chất lượng thì phải trả lương nhiều mà hiệu quả kém. Bên cạnh đó nhiều ứng viên sẽ thay đổi suy nghĩ, không sống chết để có học hàm giáo sư, phó giáo sư nữa.
Để làm được điều này không dễ vì đụng chạm đến quyền lợi của nhiều người và cần sự chung tay của các bộ Nội vụ, Tài chính và Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Nhưng tôi tin rằng đây là một trong những điểm quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết số 29 “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo” mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội rất quan tâm. Làm được điều này sẽ là cuộc cách mạng lớn không chỉ trong công tác học hàm mà sẽ thay đổi và nâng tầm chất lượng giáo dục Việt Nam.
Ngày 2/2, Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước công bố danh sách 1.226 ứng viên đạt tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư năm 2017. Số người đạt tiêu chuẩn năm nay gấp 1,7 lần năm 2016 và 2,3 lần năm 2015 khiến dư luận nghi ngại chất lượng của ứng viên trong “chuyến tàu vét” trước khi có quy định tiêu chuẩn mới.
Ngày 8/2, Thủ tướng yêu cầu Bộ trưởng Giáo dục – Chủ tịch Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước – xem xét, rà soát kỹ lưỡng đảm bảo chất lượng xét công nhận giáo sư, phó giáo sư năm 2017.
Ngày 6/3, Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước công bố quyết định của Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo, Chủ tịch Hội đồng công nhận 1.131 người đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư năm 2017. Một người xin rút, 94 người còn lại, trong đó có nhiều quan chức, đang chờ xác minh do chưa đủ tiêu chuẩn, có đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Theo VNE
GS Vũ Hà Văn phân tích ưu, nhược điểm của hai cách phong giáo sư
Theo GS Vũ Hà Văn, nếu phong qua hội đồng nhà nước thì cần đặt chuẩn cao hơn, các hội đồng phải chất lượng và làm việc nghiêm túc.
Giáo sư Vũ Hà Văn, Khoa Toán, Đại học Yale (bang Connecticut, Mỹ). Ảnh: NVCC
Năm này qua năm khác, ngay sau khi danh sách giáo sư, phó giáo sư mới được công bố, báo chí lại đăng hai chỉ số thống kê, không lấy gì làm vui. Một là số lượng trung bình bài nghiên cứu do một giáo sư công bố khá thấp. Hai là tổng số công bố quốc tế của Việt Nam còn kém nhiều lần so với các nước trong khu vực. (Trong bài này tôi sẽ dùng từ giáo sư để gọi chung hai chức danh giáo sư và phó giáo sư).
Năm nay, còn có một thống kê gây sốc hơn. Đó là trong gần 1.200 giáo sư được đề nghị, có tới hơn một nửa chưa có bài nghiên cứu nào đăng trên tạp chí quốc tế uy tín. (Uy tín ở đây được tính theo nghĩa tương đối, nghĩa là tạp chí có mặt trong danh sách tên gọi là ISI). Việc này gây chấn động dư luận trong vài tuần gần đây, dẫn tới việc Thủ tướng phải đích thân chỉ định hội đồng phong giáo sư rà soát toàn bộ danh sách. Một việc rất hiếm khi xảy ra tại bất kỳ nước nào.
Hiện nay tại Việt Nam việc phong giáo sư thường được coi là một hình thức tôn vinh. Nhưng khi chuẩn mực đã bị xáo trộn, hình thức này không đạt được mục đích của nó. Mọi người đã mất lòng tin vào giá trị của "tôn vinh", bởi các thông kê nói trên. Nhiều nhà nghiên cứu khoa học thực sự, có nhiều công trình giá trị, đã cảm thấy danh hiệu của họ bị xem thường. Nhiều nhà nghiên cứu trẻ, mặc dầu đủ chuẩn, không hào hứng gì với việc ứng cử vào chức danh giáo sư.
Hiển nhiên quy trình phong giáo sư cần thay đổi. Nhưng thay đổi như thế nào?
Hiện nay các nước tiên tiến có hai cách phong hàm giáo sư/phó giáo sư. Cách một là phong qua hội đồng nhà nước như hiện nay. Báo chí đã viết nhiều về cách xét duyệt này, nội dung chủ yếu là sau khi qua các hội đồng ở dưới, hội đồng liên ngành của nhà nước sẽ là đơn vị cuối cùng xét duyệt. Một số nước châu Âu dùng cách này.
Cách hai là các trường đại học tự phong. Đây là cách Mỹ làm. Chức danh trước hết được hội đồng khoa xem xét và đề đạt, sau đó qua hội đồng khoa, hội đồng liên khoa của trường.
Giữ cách phong qua hội đồng nhà nước, nhưng đặt chuẩn cao hơn
Các vấn đề của cách làm này như sau:
Thứ nhất, chuẩn cao về cơ bản hiện nay vẫn là đếm số công trình. Dù có quy định phải là công trình đăng tạp chí ISI chăng nữa, nếu muốn vẫn có thể lách. Trong danh sách ISI có rất nhiều tạp chí đăng bài khá dễ dàng, và thường những bài này ít được đọc hoặc trích dẫn. Nếu không tính chỉ số trích dẫn, chỉ đếm số bài đăng thực ra không đo được gì.
Thứ hai, chuẩn các ngành không thể để giống nhau. Các chỉ số như số lượng bài báo, số trích dẫn, H-index, của các ngành khác nhau rất khác nhau, ngay cả trong cùng một lĩnh vực lớn như khoa học tự nhiên.
Thứ ba, rất nhiều trường đại học Việt Nam có rất ít giáo sư, thậm chí không có ai. Chuẩn càng cao thì khả năng họ có giáo sư càng giảm.
Sự thành công của phương pháp này phụ thuộc vào chất lượng và sự nghiêm túc của các hội đồng.
Chuẩn của việc xét giáo sư cần là chuẩn chung của hội đồng chuyên ngành đưa ra, chứ rất khó dùng một chuẩn cứng cho nhiều ngành một lúc như hiện nay. Nếu các thành viên của hội đồng trình độ càng cao, càng nhiều hiểu biết về nghiên cứu quốc tế, chuẩn của họ đưa ra sẽ tự nhiên cao lên. Trong thời đại ngày nay, các nghiên cứu, chất lượng của tạp chí, số lượng trích dẫn... đều là thông tin có thể tìm được dễ dàng trên internet. Xác định chất lượng của một nhà nghiên cứu không phải điều quá khó.
Đưa việc phong giáo sư về từng trường
Vấn đề ở đây, như nhiều người đã đề cập, là sẽ có hiện tượng loạn giáo sư, số lượng giáo sư sẽ tăng chóng mặt, và chất lượng giáo sư các trường khác nhau sẽ rất khác nhau.
Phương án này khả thi và sẽ có một số ưu điểm nếu ta thay đổi quan niệm về chức danh.
Ở Mỹ, giáo sư để chỉ những người giảng dạy và nghiên cứu chuyên nghiệp trong các trường đại học. Đơn giản nó là tên của một nghề, như cầu thủ bóng đá, không mang tính tôn vinh. Mỹ có hàng nghìn trường đại học, số lượng giáo sư có thể cả vài trăm nghìn. Nếu ta quan niệm như vậy thì việc giáo sư nhiều hay ít không thành vấn đề lớn.
Các lợi ích có thể có của việc các trường đại học tự phong giáo sư:
Thứ nhất, chỉ những người trực tiếp giảng dạy và nghiên cứu ở các trường đại học mới có thể được phong giáo sư.
Thứ hai, lợi ích của giáo sư gắn liền với trường. Các trường tốt muốn giữ đẳng cấp sẽ rất cẩn thận trong việc phong giáo sư. Không phải dĩ hoà vi quý, bạ ai cũng phong, bởi một trường nhiều giáo sư dỏm, xếp hạng sẽ tự đi xuống. Ngược lại, các giáo sư giỏi cũng muốn về trường tốt, vì uy tín và điều kiện làm việc của họ được cải thiện.
Thứ ba, vì đẳng cấp của trường được quyết định bởi chất lượng của giáo sư, các trường sẽ cạnh tranh để có được các giáo sư tốt nhất, vô hình chung sẽ cải thiện thu nhập và điều kiện làm việc của những người thực sự có tài năng.
Thứ tư, vẫn có nhiều cách để tôn vinh các nhà khoa học xuất sắc. Như đã nói ở trên, đẳng cấp giáo sư gắn liền với đại học của họ. Như ở Mỹ có hàng nghìn trường, nhưng giáo sư của các trường lớn như Harvard hay Princeton vẫn có tiếng nói riêng. Ngay trong một trường, cũng có nhiều cách để tôn vinh giáo sư, thông qua các danh hiệu như giáo sư xuất sắc của trường... Bên cạnh đó, các ngành khoa học đều có chuẩn mực để các nhà khoa học đánh giá lẫn nhau, như các giải thường, đề tài cấp quốc gia, chất lượng bài nghiên cứu, phát biểu tại hội nghị quốc tế quan trọng...
Ở trên tôi có nhắc tới việc đánh giá các trường đại học. Trong công cuộc cải tổ giáo dục đại học, đây là điều hết sức cần thiết, ngay cả khi nó không gắn liền với việc phong hàm. Nó sẽ đưa ra định hướng cho phụ huynh đang tìm trường cho con em, và là cơ sở thúc đẩy sự cạnh tranh về học thuật các trường. Hiện nay cũng đã nhiều trường đăng thông tin về quá trình đào tạo và thành tích khoa học của các giáo sư trên trang web của họ. Điều này cần được làm như một quy định.
Phụ huynh có quyền được biết những người dạy dỗ con mình được đào tạo ra sao. Học sinh rất cần biết giáo sư của mình trình độ thế nào, bởi họ có sự lựa chọn.
Chi phí để lập một ủy ban độc lập cho việc đánh giá các trường đại học có lẽ rất nhỏ so với các chi phí về giáo dục.
Theo VNE
Hồ sơ đầy đủ, Bộ trưởng Y tế vẫn 'rơi' khỏi danh sách công nhận GS Ngày 6.3, Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước công bố danh sách 1.131 người đạt tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư năm 2017, tuy nhiên trong danh sách này không có tên Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến. Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến. Cụ thể, trong số 1.131 người vừa được công nhận...