Lên chức bà nội vẫn đi thi đại học
Dù đã nghỉ hưu và có 2 cháu nội, năm nay 56 tuổi, bà Nguyễn Thị Phong vẫn quyết tâm đi thi đại học bởi lẽ, với bà, đây là cách để thấy mình không tụt hậu với lớp trẻ.
Thí sinh Nguyễn Thị Phong: “Đi thi là để thử sức mình, để thấy mình không tụt hậu với lớp trẻ”.
Trường THCS Hưng Bình (Tp Vinh, Nghệ An) là địa điểm thi tuyển sinh của Trường ĐH Khoa học – Xã hội và Nhân văn Tp Hồ Chí Minh. Sáng nay, điểm thi này trở nên sôi động hơn bởi lẽ xuất hiện một thí sinh khá đặc biệt. Đặc biệt bởi lẽ, tính tới thời điểm này, thí sinh Nguyễn Thị Phong (quê ở xã Phong Thịnh, huyện Thanh Chương, Nghệ An) đã bước qua tuổi 56.
Gặp chúng tôi sau khi hết giờ làm bài, thí sinh đã lên chức bà nội này khá e dè. “Có chi mô cháu, bác chỉ muốn đi thi để thử sức mình thôi’, bà Phong phân bua. Sau một hồi thuyết phục, thí sinh đặc biệt này mới đồng ý trò chuyện với chúng tôi, bởi “Các cháu làm bác ngại quá, lỡ không đỗ đại học thì xấu hổ lắm”.
Lý do đến với kỳ thi tuyển sinh ĐH năm nay của bà cũng đơn giản lắm, bà bảo, đi thi là để thử sức mình đến đâu, để xem mình có tụt hậu nhiều so với lớp trẻ ngày nay hay không. 56 tuổi, đã nghỉ hưu được mấy năm nay và đã có đến 2 đứa cháu nội thế nhưng bà không ngờ khi đề đạt ý kiến đi thi đại học, con trai, con dâu và chồng bà lại nhiệt tình ủng hộ đến thế. Cô con dâu công tác trong Sài Gòn còn gửi về cho bà 3 bộ đề thi khối C để mẹ chồng ôn luyện. “Thực ra thì mình cũng già rồi, không có nhiều thời gian để ôn luyện mô. Chủ yếu là tôi cố gắng giải hết các đề thi trong 3 bộ đề con dâu gửi cho thôi. Nhiều tuổi rồi, đầu óc cũng không còn nhanh nhạy như trước kia nên ôn cũng khó”.
Thí sinh 56 tuổi trong “vòng vây” của các phóng viên.
Sinh ra trong một gia đình hiếu học, ông nội là thầy đồ dạy chữ Nho, bố là quân y sỹ, các chú đều thành đạt trên con đường học vấn, bà Phong cũng được thừa hưởng trí thông minh và lòng hiếu học của gia đình. Thi đậu vào Trường ĐH Thủy Lợi nhưng do nhận được giấy báo trúng tuyển quá muộn nên không được nhập học, bà Phong lên Nông trường 3-2 (đóng tại huyện Quỳ Hợp, Nghệ An) làm công nhân rồi học lên và được phân công làm kế toán của nông trường. Năm 1978, bà lấy chồng, có với nhau 1 đứa con trai thì “hai người hết duyên”. Bà nuôi con một mình.
Được một thời gian dài, bà quyết định xin nghỉ chuyển vào Đà Lạt sinh sống. Được cái, anh con trai Nguyễn Tử Ngọc Anh học rất giỏi, 2 lần đạt danh hiệu học sinh giỏi Quốc gia nên bà được an ủi phần nào cho cái cảnh nuôi con một mình. 4 năm trước, bà trở về quê, gá nghĩa với một người đàn ông đã có vợ. Con cái thành đạt (hiện con trai bà là Giám đốc Trung tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở Sài Gòn), đáng lẽ bà có thể an nhàn mà chăm cháu nội, hưởng phúc tuổi già. Thế nhưng, khi cuộc sống không còn gì đáng để phàn nàn, bà quyết định đi thi đại học, để tiếp tục giấc mơ đèn sách đã lỡ của mình. Những tưởng ý định của mình sẽ bị chồng và các con phản đối nhưng không, khi biết ý định của bà, mọi người đều hết sức ủng hộ và động viên bà đi thi.
Người phụ nữ lên chức bà nội vẫn quyết tâm thi đại học nhận được nhiều sự khâm phục từ các bạn trẻ.
Được tiếp thêm sức mạnh, bà khăn gói xuống Vinh dự thi vào Trường ĐH Khoa học – Xã hội và Nhân văn TPHCM. Chồng già yếu, các con lại ở xa nên bà tá túc ở nhà một người quen để đi thi. Suốt mấy ngày qua bà nhận được rất nhiều cuộc điện thoại hỏi thăm của các con và người thân ở xa.
Dự thi ở phòng thi toàn các cháu bậc con, bậc cháu, bà cũng hơi “khớp” nhưng với bản lĩnh đã được tôi luyện qua gian khó cuộc sống, bà nhanh chóng lấy lại bình tĩnh để làm bài. Chỉ đến khi tiếng trống hết giờ thi vang lên, thí sinh Nguyễn Thị Phong mới chịu buông bút. Cô Đặng Thị Thu – giám thị phòng thi cho biết: “Khi thấy thí sinh Nguyễn Thị Phong bước vào phòng thi tôi rất ngạc nhiên. Nhưng khi biết được mục đích dự thi của bác, tôi hết sức khâm phục. Thực tế, không phải ai cũng can đảm và có quyết tâm cao như bác Phong, nhất là đối với phụ nữ ở tuổi “toan về già” như thế này”.
“Môn Văn tôi chỉ tự tin làm được câu 2 và câu 3b thôi. Riêng câu “Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính thì kiên nhẫn lập nên thành tựu” tôi làm khá tốt. Câu này 3 điểm nhưng tôi nghĩ là khá khó đối với phần lớn các thí sinh bởi lẽ trải nghiệm cuộc sống của các cháu còn ít. Tôi thuận lợi hơn các cháu bởi mình đã trải qua thực tế xã hội và có trải nghiệm cuộc sống nhiều hơn. Tuy nhiên, môn Văn tôi chỉ tự tin được hơn 50% thôi. Tôi nghĩ mình có thế mạnh ở môn Lịch sử và sẽ làm bài môn này tốt hơn. Đi thi với các cháu mới thấy mình cũng đã tụt hậu nhiều rồi”, bà Phong chia sẻ.
“Nếu đỗ đại học, bác có đi học không?”, chúng tôi hỏi, bà trả lời ngay lập tức: “Có chứ”. Bà cho biết, nếu đỗ đại học sẽ đón cả chồng vào Nam để tiện chăm sóc tuổi già cho ông.
Hoàng Lam
Theo dân trí
"Cái bẫy" của sự đổi mới giáo dục chắp vá?
Chừng nào đổi mới GD 2 chưa được làm rõ và thống nhất thì mọi nỗ lực đổi mới bộ phận chỉ có thể đem lại một phiên bản mới của đổi mới GD 1, và do đó chúng ta vẫn luẩn quẩn trong "cái bẫy" của sự đổi mới chắp vá.
Video đang HOT
Mô hình GD... chưa từng có trong lịch sử
Bản chất của tiến trình đổi mới giáo dục nước ta trong 26 năm qua là chuyển từ một nền GD phục vụ kinh tế kế hoạch hóa sang nền GD vận hành, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Đó là mô hình GD... chưa từng có trong lịch sử. Bởi thế, Việt Nam phải tự tìm lấy lời giải từ quá trình tìm tòi, thử nghiệm và sáng tạo. Quá trình này được cụ thể hóa bằng những đổi mới từng phần, trước từng vấn đề nẩy sinh, trong từng giai đoạn phát triển của GD.
Hiển nhiên, trước tính phức tạp và hoàn toàn mới của bài toán này, việc tìm tòi bước đi bằng quá trình đổi mới từng phần là cần thiết và đúng đắn những kết quả đạt được là quan trọng. Tuy nhiên, cái giá phải trả là sự luẩn quẩn trong đổi mới, nghĩa là sự tích tụ của những vấn đề nẩy sinh.
Các yếu kém về chất lượng và hiệu quả, về cơ cấu phát triển, về công bằng xã hội đã tích tụ lại trong một quá trình phát triển thiên về xử lý tình huống và đang đặt GD trước những thách thức gay gắt của một bối cảnh kinh tế- xã hội đã khác trước rất nhiều.
Nguyên nhân cơ bản của những yếu kém dai dẳng này là do thiếu một tầm nhìn tổng thể, thiếu một kế hoạch đồng bộ, dẫn đến cách đổi mới chắp vá như Đại hội X của Đảng đã chỉ ra.
Đó là bức tranh chung về đổi mới GD nước ta trong 26 năm qua với những thành công và bất cập của nó. Chúng ta sẽ gọi đó là đổi mới giáo dục 1.0, với các phiên bản 1.1, 1.2, 1.3 v.v...tương ứng với những đổi mới từng phần của tiến trình đổi mới này.
Thành công của nó là đã định hình được những đường viền cơ bản của một "thế giới quan" về GD trong điều kiện thực tiễn, phù hợp với mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng.
Bất cập của nó là sự chắp vá, dẫn tới cái bẫy của sự đổi mới, mà biểu hiện cụ thể là sự tích tụ những yếu kém về chất lượng và hiệu quả cùng những tiêu cực trong quản lý và điều hành, khiến GD trở nên tụt hậu trước những yêu cầu mới của phát triển kinh tế-xã hội.
Đổi mới và sự...bỏ quên?
Đó là chủ trương được khẳng định tại Đại hội XI của Đảng. Chủ trương này nói lên quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước trong việc xây dựng một mô hình phát triển mới của GD.
Một mặt khắc phục cái bẫy của sự đổi mới chắp vá trong 26 năm qua. Mặt khác tạo tiền đề để GD thực sự góp phần vào việc thực hiện một trong các đột phá chiến lược là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thực ra chủ trương về việc xây dựng một mô hình phát triển mới của GD đã có từ Đại hội Đảng X. Trên cơ sở phê phán sự chắp vá trong đổi mới, Đại hội X đã yêu cầu: "Chuyên dân mô hình GD hiên nay sang mô hình GD mở - mô hình xã hôi học tâp với hê thông học suôt đời".
Yêu cầu này đã bị... bỏ quên suốt 5 năm qua. Nói cho đúng, nó chưa đi vào được cuộc sống. Nguyên nhân là do cho đến năm 2008 nước ta vẫn là nước thu nhập thấp, mô hình phát triển kinh tế chủ yếu vẫn là mô hình phát triển theo chiều rộng bối cảnh đó không đặt ra yêu cầu bức bách về học suốt đời.
Lễ khai giảng năm học mới tại một trường học.
Tuy nhiên, giờ đây nước ta đã trở thành nước thu nhập trung bình. Để không bị mắc kẹt trong "cái bẫy" của nước thu nhập trung bình, một nhiệm vụ cấp bách đang được đặt ra là phải tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.
Mô hình tăng trưởng mới sẽ chủ yếu là mô hình phát triển theo chiều sâu, dựa trên sự phát huy của nhân tố năng suất tổng hợp, bao gồm tiến bộ khoa học công nghệ, nhân lực chất lượng cao, kỹ năng quản lý hiện đại. Sự chuyển đổi mô hình tăng trưởng này vừa là tiền đề, vừa là yêu cầu để chủ trương về một mô hình GD mở với hệ thống học suốt đời được hiện thực hóa và đi vào cuộc sống.
Như thế, nhìn các chủ trương phát triển GD của Đảng trong sự vận động biện chứng gắn liền với bối cảnh kinh tế-xã hội của đất nước, có thể nói bài toán đổi mới căn bản, toàn diện nền GD quốc dân quy về bài toán xây dựng mô hình GD mở- mô hình xã hội học tập với hệ thống học suốt đời.
Đổi mới GD căn bản, toàn diện
Khái niệm học suốt đời đã được đưa vào chính sách GD Việt Nam từ năm 1993 trong NQTW4 (khóa VII). Đề án xây dựng xã hội học tập cũng đã được triển khai từ năm 2005 theo QĐ 112 của Thủ tướng CP. Tuy nhiên, rất nhiều rào cản đang vướng chân trên con đường vận động của GD Việt Nam hướng tới hệ thống học suốt đời.
Bản thân khái niệm học suốt đời vẫn chưa có cách hiểu thống nhất và rõ ràng. Nó thường được đánh đông với GD không chính quy, GD giành cho người lớn, GD ngoài nhà trường. Cách hiểu đó khác xa với cách hiểu được công nhận rộng rãi giờ đây trên thế giới, theo đó học suốt đời bao gồm học chính quy, không chính quy và phi chính quy, trong mối quan hệ bình đẳng, liên thông và chuyển đổi lẫn nhau.
Rào cản vê khái niêm này là nguyên nhân côt lõi dân đên những rào cản khác, cụ thể là các rào cản về thể chế, về cơ cấu hệ thống, về chương trình GD, về quản lý, tài chính, đào tạo giáo viên, trong việc xây dựng một hệ thống học suốt đời đích thực ở nước ta.
Về bản chất, xây dựng hệ thống học suốt đời là chuyển sang một giai đoạn phát triển mới về chất của GD. Nó đòi hỏi sự đoạn tuyệt với mô hình GD truyền thống trên nhiều phương diện. Nhà giáo không còn là nguồn cung cấp tri thức mà trở thành người dẫn dắt tới các nguồn tri thức. Người học không còn chỉ là học sinh, sinh viên trong trường mà là bất kỳ ai, ở mọi lứa tuổi.
Việc dạy và học chuyển trọng tâm từ tri thức sang năng lực, trong đó ưu tiên là năng lực sáng tạo, áp dụng, phân tích, tổng hợp tri thức, năng lực làm việc theo nhóm, năng lực học cách học, năng lực phê phán v.v... Công tác đánh giá không còn nhằm loại trừ ai mà có mục đích chính là chỉ ra cách học thích hợp và định hướng cho người học con đường tiếp tục trong học tập. Chẳng còn ai bị bỏ rơi, người nào cũng có cơ hội học tập đến cùng suốt cuộc đời mình.
Xét như vậy thì, dù rằng chúng ta đã nói rất nhiều và nói thường xuyên về học suốt đời nhưng GD nước ta vẫn đang giẫm chân trong mô hình truyền thống với nhà trường khép kín trong công thức 2- 4- 8 (ý nói 2 bìa sách giáo khoa, 4 bức tường lớp học, 8 giờ làm việc hành chính quan liêu). Việc học hướng tới thi cử, người học chỉ chăm chăm có một tấm bằng để sử dụng trong suốt cuộc đời.
Mô hình truyền thống thích hợp với mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và đang trở thành rào cản trong bước chuyển sang mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Vì thế, đổi mới căn bản nền GD quốc dân trong giai đoạn phát triển mới của đất nước chính là sự chuyển đổi từ mô hình truyền thống sang mô hình học suốt đời theo nghĩa đích thực của nó.
Điều đó kéo theo sự đổi mới toàn diện nền GD quốc dân, từ cơ cấu hệ thống, tổ chức nhà trường, chương trình GD, đến công tác quản lý, cơ chế tài chính, đào tạo giáo viên.
Như thế đổi mới căn bản, toàn diện nền GD quốc dân sẽ là một giai đoạn phát triển mới về chất trong tiến trình đổi mới GD. Nó là đổi mới GD 2, với một mô hình phát triển đã được xác định ngay từ đầu, trong một tiếp cận tổng thể và tầm nhìn dài hạn.
Dĩ nhiên, để thực hiện đổi mới GD 2 cần có lộ trình phù hợp, trong đó quan trọng nhất là xác định các khâu đột phá. Đó là đổi mới cơ chế quản lý GD và cải cách đào tạo giáo viên.
Cơ chế quản lý GD "lấy nhà trường làm trung tâm"
Trong hơn 25 năm đôi mới vừa qua, khi chúng ta phát triên GD chủ yêu theo chiêu rông ở mọi lĩnh vực, chúng ta đã có cơ chê thích hợp. Đây là cơ chê tương đôi đơn giản, tương thích với đổi mới GD 1, tâp trung vào các chính sách cởi trói, dỡ bỏ các ràng buôc vô lý của môt Nhà nước bao câp. Thành công của cơ chê này là đã giải phóng năng lượng vôn có trong các lĩnh vực kinh tê- xã hôi, trong đó có GD, đem lại nguôn lực và đông lực cho phát triên.
Giờ đây, khi đât nước đã trở thành môt nước thu nhâp trung bình, lại hôi nhâp sâu rông với thê giới, thì hê thông kinh tê-xã hôi trở thành phức tạp và đa dạng hơn trước rât nhiêu. Bản thân GD cũng đã khác xa vê quy mô phát triên, vê mạng lưới trường lớp, với yêu câu cao hơn vê chât lượng và hiêu quả, cùng hê thông chính sách phong phú và quan hê quôc tê rông mở. Hôi nhâp quôc tê vê GD cũng đặt GD trước những thách thức mới.
Trong khi đó, cơ chê vân hành hê thông vân chủ yêu là cơ chê cởi trói, tìm cách tháo gỡ các nút thắt, khơi thông các tắc nghẽn. Cơ chê này có vân dụng mô hình quản lý công mới, được từng bước nâng câp thành các phiên bản 1.1, 1.2 v.v..., nhưng chủ yêu trong khuôn khô của môt cải cách từng phân, môt đôi mới chắp vá, không còn phù hợp với giai đoạn phát triên mới vê chât. Đặc trưng cơ bản của cơ chê này là lây nhà quản lý làm trung tâm.
GD nước ta vẫn đang giẫm chân trong mô hình truyền thống với nhà trường khép kín trong công thức 2- 4- 8 (ý nói 2 bìa sách giáo khoa, 4 bức tường lớp học, 8 giờ làm việc hành chính quan liêu). Việc học hướng tới thi cử, người học chỉ chăm chăm có một tấm bằng để sử dụng trong suốt cuộc đời.
Cơ chê này cũng mới chỉ tâp trung chủ yêu vào môi quan hê giữa Nhà nước và nhà trường. Chúng ta hình như quên mât rằng, cùng với tiên trình đôi mới, bên cạnh Nhà nước đã dân hình thành hai khu vực mới là thị trường và xã hôi dân sự.
Như thê, cơ chê mới, ngoài viêc xử lý khéo léo tính phức tạp và đa dạng của hê thông, còn phải tính đên vai trò và tác đông của cả ba khu vực- Nhà nước, thị trường, xã hôi dân sự- trong đời sông kinh tê- xã hôi nói chung, trong GD nói riêng. Nó phải thay cơ chế cởi trói bằng cơ chế trao quyền. Từ đó, chuyên cách tiêp cân từ cơ chê quản lý lây nhà quản lý làm trung tâm, sang cơ chê quản lý lây nhà trường, nhà giáo, người học làm trung tâm.
Cơ chê mới sẽ khác vê chât với cơ chê trước đây.
Đó sẽ là cơ chê tương thích với đổi mới GD 2. Nó không dừng lại ở sự cởi trói nữa mà phải hướng tới viêc trao quyền, tạo ra môt không gian khoáng đạt, dân chủ và kỷ cương trong GD, nơi hê thông GD được tái câu trúc. Nhà giáo chân chính sông được bằng lương, các cơ hôi học tâp theo nhu câu xã hôi và nhu câu cá nhân được rông mở.
Cải cách đào tạo giáo viên
Kể từ năm 2000 đến nay, đào tạo giáo viên ở Việt Nam bước vào tiến trình đổi mới nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới của GD phổ thông. Điểm mạnh nổi trội của Việt Nam là có chính sách giáo viên nhất quán, trong đó xây dựng đội ngũ nhà giáo luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong việc thực hiện các chiến lược phát triển GD.
Tuy nhiên, điểm mạnh đó vẫn bị đóng khung trong các giới hạn của đổi mới GD 1. Bằng chứng là, mặc dù đã có nhiều nỗ lực đổi mới, nhưng đào tạo giáo viên ở nước ta vẫn đang luẩn quẩn trong "cái bẫy" của sự đổi mới chắp vá. Nghĩa là cho đến nay chúng ta vẫn mắc kẹt trong một mô hình đào tạo cũ, đã lỗi thời, mô hình đào tạo 1.0, với những đặc trưng sau đây:
1/ Mô hình giáo viên với nhiệm vụ chính là truyền thụ kiến thức trên lớp học. 2/ Hệ thống đào tạo giáo viên khép kín với những nhà trường chuyên ngành đóng khung trong một mô hình đào tạo cứng nhắc, ít gắn kết với cộng đồng và nhà trường phổ thông. 3/ Quá trình đào tạo giáo viên vẫn không có sự gắn bó giữa đào tạo ban đầu với đào tạo tiếp tục, giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học.
Mô hình đào tạo giáo viên khép kín và chia cắt nói trên, tương thích với mô hình GD truyền thống, trong đó việc học hướng tới thi cử, nhà trường phổ thông gói gọn trong công thức 2-4-8. Mô hình này sẽ trở thành rào cản khi chuyển sang mô hình GD mở với hệ thống học suốt đời, trong đó nhà trường được tổ chức đa dạng, tự chủ, dân chủ, canh tân và sáng tạo trong dạy và học. Nhà giáo là nhà sư phạm chuyên nghiệp với một phổ vai trò phức tạp trong lớp học, trường học và cộng đồng.
Vì thế, cần xây dựng và triển khai một mô hình đào tạo giáo viên mới, mô hình đào tạo với những đặc trưng mới sau đây:
1/ Mô hình giáo viên chuyên nghiệp có năng lực xử lý tin cậy và phù hợp trước những tình huống khác nhau, vì lợi ích của người học và đạo đức nghề nghiệp. 2/ Hệ thống đào tạo giáo viên phải là hệ thống mở trong tuyển sinh, trong đào tạo, trong quan hệ với nhà trường phổ thông, trong hội nhập quốc tế. 3/ Quá trình đào tạo giáo viên phải là quá trình liên tục, trong đó các giai đoạn đào tạo (đào tạo ban đầu, giai đoạn tập sự, đào tạo tại chức, đào tạo tiếp tục, phát triển đội ngũ, tham gia các nghiên cứu khoa học về giáo dục) nằm trong quan hệ gắn bó, bổ sung cho nhau.
Hiển nhiên mô hình đào tạo này là bước chuyển về chất so với mô hình đào tạo trước đây. Bước chuyển này hiện được coi là cải cách đào tạo giáo viên trên thế giới, để giáo viên tương lai thực sự là giáo viên của thế kỷ 21, đủ năng lực ứng phó trước những thách thức đang đặt ra đối với GD trước những thay đổi nhanh chóng của đời sống kinh tế- xã hội.
Kết luận
Bài viết này là sự tiếp cận bài toán đổi mới căn bản, toàn diên giáo dục nước ta dưới cái nhìn tổng thể về tiến trình đổi mới GD từ năm 1986 đến nay. Sự khác biệt cơ bản ở đây là đổi mới giáo dục 2 vượt qua cách đổi mới chắp vá trước đây bằng một tiếp cận tổng thể, toàn hệ thống, trong đó cần thiết xác định ngay từ đầu mô hình mới của sự phát triển GD.
Nếu trong đổi mới giáo dục 1, tư duy chủ đạo là tư duy cục bộ, từng phần, thì trong đổi mới giáo dục 2, tư duy chủ đạo là tư duy tổng thể, toàn cục. Sự chuyển đổi về tư duy này là cần thiết trong giai đoạn hiện nay khi cần tìm lời giải cho bài toán đổi mới căn bản, toàn diện nền GD quốc dân.
Tuy nhiên, đây là điều nói thi dễ, làm thì khó. Trong một thời gian dài hơn 25 năm, khi tư duy theo kiểu dò dẫm tiến dần từng bước đã trở thành thói quen, thì dấu ấn của nó vẫn còn dai dẳng trong cách thức hoạch định chính sách của chúng ta.
Một ví dụ cụ thể là cách làm hiện nay trong việc xây dựng chương trình GD phổ thông sau 2015. Cho đến nay, chưa lúc nào và chưa ai làm rõ vị trí và vai trò của chương trình này trong bức tranh tổng thể của đổi mới căn bản và toàn diện nền GD quốc dân.
Tư duy chủ đạo trong xây dựng chương trình GD phổ thông sau 2015 vẫn là tư duy cục bộ. Vì thế, có nhiều rủi ro là việc xây dựng chương trình này sẽ mắc lại những sai lầm của việc xây dựng chương trình GD phổ thông năm 2000, nghĩa là thiếu sự gắn kết toàn hệ thống.
Bài viết này xin dừng lại với một khuyến nghị: Chừng nào đổi mới GD 2 chưa được làm rõ và thống nhất thì mọi nỗ lực đổi mới bộ phận chỉ có thể đem lại một phiên bản mới của đổi mới GD 1, và do đó chúng ta vẫn luẩn quẩn trong "cái bẫy" của sự đổi mới chắp vá.
Theo Phạm Đỗ Nhật Tiến
Tuần Việt Nam
Căng thẳng nhóm ngành kinh tế, công nghệ Đến chiều 14-5, nhiều trường ĐH đã có thống kê sơ bộ số hồ sơ đăng ký dự thi (ĐKDT) tuyển sinh ĐH, CĐ theo ngành. Theo đó, nhóm ngành kinh tế và công nghệ có lượng hồ sơ ĐKDT nhiều nhất. Trường ĐH Luật TP.HCM cho biết tổng số hồ sơ ĐKDT của trường năm nay là 15.422 (tăng 3.341 hồ sơ...