Lê Trọng Tuấn: Người “chèo đò” đặc biệt
Sống trong bóng tối từ khi 3 tháng tuổi, 12 tuổi mới biết đến trường lớp, nhưng với nghị lực phi thường, cậu bé Lê Trọng Tuấn đã vượt lên nghịch cảnh để trở thành người “chèo đò” đặc biệt “chở” những số phận không may mắn đến tương lai.
Sinh ra ở xã Đông Hoàng, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, ngay từ khi 3 tháng tuổi cậu bé Lê Trọng Tuấn đã mất đi đôi mắt sáng vì biến chứng của căn bệnh sởi. Lớn lên trong bóng tối và không được đi học như bạn bè cùng trang lứa là một thiệt thòi lớn cho cậu bé tuổi ăn tuổi học như Tuấn.
Cũng may vào năm 2000, Tuấn được Hội Người mù huyện Đông Sơn giới thiệu xuống Trung tâm Giáo dục và Dạy nghề cho người mù Thanh Hóa để học lớp tiền hòa nhập. Và cơ hội được học tập, giao lưu, trò chuyện với thầy cô, bạn bè nơi đây đã thắp sáng mơ ước lớn lao trong Tuấn, giúp cuộc đời Tuấn bước sang một trang mới với niềm tin, động lực và khát khao về một cuộc sống ý nghĩa hơn.
Tuấn chia sẻ: “Lúc xuống trung tâm học tôi đã 12 tuổi, lần đầu tiên được biết tới trường, tới lớp, biết tới thầy, cô và có cả những người bạn đồng cảnh chia sẻ khó khăn, tôi thấy rất vui và háo hức. Cũng từ đây tôi khát khao về một cuộc sống ý nghĩa, một cuộc sống để sống để thấy mình không vô nghĩa”.
Đến với lớp hòa nhập của Trung tâm Giáo dục và Dạy nghề cho người mù Thanh Hóa, Tuấn được làm quen với những chấm nhỏ nổi trên tờ giấy với những quy tắc riêng, được gọi là chữ nổi Braille. Sau một năm kiên trì, nỗ lực phấn đấu và khổ công luyện tập, Tuấn đã có thể đọc và viết tương đối thành thạo, được trung tâm giới thiệu ra Trường Phổ thông cơ sở Nguyễn Đình Chiểu Hà Nội để học. Nhưng vì điều kiện gia đình khó khăn nên Tuấn trở về địa phương học hòa nhập cùng với các bạn mắt sáng. Đây quả là vấn đề vô cùng khó khăn!
Sách vở là phương tiện đến với thế giới xung quanh của con người, nhất là với những người khiếm thị. Vậy nhưng khi về quê học, khó khăn lớn nhất của Tuấn lại chính là sách. Sách học còn thiếu, đấy là chưa kể đến sách tham khảo hay nâng cao.
Tuấn chia sẻ: “Trong trường không có sách giáo khoa và tài liệu học cho người khiếm thị, chính vì vậy, tôi phải nhờ bạn bè đọc từng bài học trong sách giáo khoa để chép sang chữ nổi Braille lấy tài liệu học. Có những quyển sách tôi phải chép ròng rã mấy tháng trời mới xong…”.
Thầy Lê Trọng Tuấn đang hướng dẫn cho các học sinh của mình.
Có thể nói, chữ Braille giống như một thứ công cụ không thể thiếu được trong cuộc sống của những người không thể nhìn thấy ánh sáng như Tuấn. Được học chữ nổi đã giúp Tuấn biết đọc, biết viết, mở rộng hiểu biết, nâng cao kiến thức, đem lại cơ hội được học tập cùng với các bạn mắt sáng bình thường khác dù có đôi chút khó khăn.
Video đang HOT
Sau những cố gắng, năm 2012, Lê Trọng Tuấn tốt nghiệp THPT với tấm bằng loại ưu cùng với giải Nhất cuộc thi viết văn Onkyo Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và được tuyển thẳng vào Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh. Tuấn chọn ngành công tác xã hội để theo học nhằm được gần gũi với những người có cảnh ngộ giống như mình, và để sau này ra trường có thể giúp những người yếu thế trong xã hội.
Với mong muốn được gần gũi và giúp đỡ những người khuyết tật, nhưng khi tốt nghiệp ra trường Tuấn lại một lần nữa rơi vào trạng thái hụt hẫng khi không xin được việc làm vì là người khiếm thị.
Trời không phụ lòng người, một cơ duyên khác đã đưa Tuấn trở lại mái trường xưa – Trung tâm Giáo dục và Dạy nghề cho người mù Thanh Hóa với cương vị là giáo viên dạy chữ nổi Braille cho các em khiếm thị.
Đây thực sự là niềm mong ước cháy bỏng của Tuấn, bởi những năm tháng miệt mài học tập, anh luôn ấp ủ một ước mơ, sẽ có một ngày được đứng trên bục giảng dạy các em nhỏ có chung hoàn cảnh như mình. Và thật tuyệt vời khi anh được trở lại nơi đã cho anh một niềm tin, một mục tiêu để hướng tới.
Lê Trọng Tuấn cho hay: “Mái trường xưa một lần nữa lại giang tay đón tôi. Tôi thấy rất hạnh phúc khi được trở về với các em nhỏ đồng tật thân yêu. Giờ đây tôi đã là một giáo viên dạy chữ Braille, tôi biết mình phải làm thế nào để có thể giúp các em vượt qua khó khăn và vươn lên trong cuộc sống”.
Ai đó đã từng nói “Người mù mà không biết chữ nổi thì có nghĩa là bị mù thêm một lần nữa”. Do đó, những người mù trong độ tuổi lao động, học tập, nhất thiết phải được học chữ Braille. Bởi chữ Braille chính là phương tiện, điều kiện hữu ích nhất giúp người mù học tập, lao động và trở thành những người thực sự có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Vì vậy, trong mỗi tiết học thầy Tuấn luôn cố gắng giảng giải, động viên các em học sinh phấn đấu học tập cũng như anh đã mang tất cả kiến thức của mình truyền đạt lại cho các em. Mỗi khóa học qua đi, thầy lại rút ra được nhiều kinh nghiệm, thu được những kết quả tốt hơn.
Không chỉ dạy các em học sinh cấp 1 học chữ nổi Braille, thầy Tuấn còn tham gia dạy lớp tin học cho người khiếm thị với 8 học viên theo học và dạy chữ nổi Braille tắt cho 15 học viên…
Chủ tịch Hội Người mù tỉnh Thanh Hóa Phạm Ngọc Quyết cho biết: “Thầy Tuấn là một giáo viên có nghị lực và ý chí tuyệt vời mà rất ít người khiếm thị có được. Anh rất yêu nghề và thực sự muốn gắn bó với nghề, gắn bó với các em nhỏ đồng tật. Những gì mà anh đã trải qua cùng với lòng hăng say lao động, cảm thông, chia sẻ với người đồng tật cho thấy anh thực sự là một tấm gương nhà giáo dạy chữ Braille tiêu biểu”.
Quả thật, thầy giáo Lê Trọng Tuấn chính là tấm gương tiêu biểu cho những người giàu nghị lực, không chịu khuất phục trước số phận. Thầy không chỉ là tấm gương để cho những bạn trẻ khuyết tật khác nhìn theo, tiếp nối mà còn là tấm gương sáng để cho những người trẻ bình thường noi theo.
Hồng Việt
Theo CAND
Bộ chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho người khuyết tật
Tại Khoản 3 Điều 27 Luật người khuyết tật qui định "Người khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia" va giao Bô GD&ĐT "Quy định chuẩn quốc gia về ngôn ngữ ký hiệu và chữ nổi Braille cho người khuyết tật" tai khoan b, muc 3, Điêu 50, Luât Người khuyết tật.
Thực hiện quyền giáo dục đối với người khuyết tật, Chính phủ đã kí quyết định 1019/QĐ-TTg về việc "Phê duyệt đề án trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2012 - 2020 với hoạt động cụ thể về trợ giúp tiếp cận giáo dục cho người khuyết tật "Nghiên cứu xây dựng và phổ biến hệ thống ký hiệu ngôn ngữ phổ thông sử dụng thống nhất trong toàn quốc; xây dựng tài liệu ký hiệu ngôn ngữ cho các cấp học phổ thông." Để tiếp tục thúc đẩy và tăng cường quyền của người khuyết tật theo Công ước của Liên hợp quốc, Chính phủ tiếp tục kí quyết định 1100/QĐ-TTg về việc "Phê duyệt kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hiệp quốc về quyền của người khuyết tật" trong đó có nội dung "Nghiên cứu xây dựng và phổ biến hệ thống ký hiệu ngôn ngữ phổ thông sử dụng thống nhất trong toàn quốc. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện tài liệu kí hiệu ngôn ngữ cho các cấp học phổ thông."
Thực hiện chủ trương giáo dục người khuyết tật của Đảng và Nhà nước, ngày 30 tháng 1 năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành "Kế hoạch giáo dục người khuyết tật giai đoạn 2018 - 2020 của ngành giáo dục", trong đó có nhiệm vụ "Biên soạn hệ thống ngôn ngữ ký hiệu phổ thông và chữ nổi Braille thống nhất sử dụng trong các cơ sở giáo dục." Để thực hiện nhiệm vụ này, nguyên Thứ trưởng, Trưởng ban BCĐ GDTKT&TECHCKK - Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa phê duyệt công văn số 367/KH-BGDĐT ngày 30 tháng 5 năm 2018, giao Vụ Giáo dục Tiểu học là đầu mối và phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, các Cục, Vụ chức năng khác Xây dựng Thông tư Quy định chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho người khuyết tật trong các cơ sở giáo dục.
Trong bài viết này, chúng tôi xin được giới thiệu tổng quan về ngôn ngữ kí hiệu Việt Namvà ý nghĩa của nó với người khuyết tật và cộng đồng nhằm giúp các nhà quản lý, giáo viên, các tổ chức, cá nhân quan tâm hiểu hơn về ngôn ngữ kí hiệu, tạo một môi trường bình đẳng, hòa nhập của người khuyết tật Việt Nam.
Giới thiệu về ngôn ngữ kí hiệu
Ngôn ngữ kí hiệu được tu sĩ Juan Pablo Bonet sử dụng dạy học cho người khiếm thính từ những năm 1620 tại Tây Ban Nha. Đến năm 1755 tu sĩ người Pháp, Charles Michel Albe de L'epee đã gặp những người Điếc lớn tuổi để học hỏi cách sử dụng ngôn ngữ kí hiệu tự nhiên. Sau đó Ông đã làm dấu theo trật tự ngôn ngữ nói trong quá trình dạy học cho học sinh điếc của mình. Phương pháp này tiếp tục được phát triển bởi học trò của ông là R.A Sicard. Đến đầu thế kỉ 19, Thomas Hopkin Gallaudetđa dạy học người Điếc theo cach làm dấu theo trật tự ngôn ngữ nói tai Mỹ. Đến những năm 1960, William Stokoe và các cộng đa nghiên cứu và khẳng định: ngôn ngữ kí hiệu là một ngôn ngữ riêng, có quy luật, đặc tính riêng. Cho đên nay hâu hêt cac trương hoc danh cho tre Điêc va khiêm thinh trên Thê giơi đa sư dung ngôn ngữ kí hiệu như loai hinh ngôn ngữ chinh trong day hoc.
Ở Việt Nam, linh mục Azemar người Pháp đa mơ trường học đầu tiên dành cho trẻ điếc năm 1886 tai Lai Thiêu, Thuân An, Binh Dương. Ở đây cả ngôn ngữ kí hiệu vầ ngôn ngữ nói trong dạy học cho trẻ điếc đa đươc sư dung. Đến những năm 90, ngôn ngữ kí hiệu được quan tâm nhiều hơn trong dạy học cho trẻ điếc. Trước nhu cầu đó, tư nhưng năm 1995, Trung tâm giáo dục tre co tật học, nay là Trung tâm Giáo dục đặc biệt Quốc gia được sự hỗ trợ của các tổ chức PSBI,World Concern, RADA BARNEN, CRS,... đã tiến hành thu thập khoảng 1700 kí hiệu tương đối giống nhau được sử dụng trong cộng đồng người Điếc ở các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Quang Binh, thành phố Hồ Chí Minh, Đa Năng, Lâm Đông, Binh Dương, Đồng Nai, Nghệ An,.... Các nghiên cứu, khảo sát sau đó cũng chỉ ra rằng chỉ có dươi 30% số kí hiệu hoàn toàn giống nhau, 46% gần giống nhau và 24% số kí hiệu khác nhau. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho việc dạy học cho học sinh điếc, học sinh khiêm thinh trong các cơ sở giáo dục có sử dụng ngôn ngữ kí hiệu. Bên cạnh đó, ngôn ngữ kí hiệu của người Điếc cũng luôn đươc phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu học tập, giao tiếp, lao động của họ.
Ngôn ngữ kí hiệu của mỗi nước đều khác nhau, nhưng lại có chung 5 thành tố cơ bản đó là: (1) Vị trí làm kí hiệu (Location); (2) Hình dạng bàn tay (Handshape); (3) Chuyển động của tay (Movement); (4) Chiều hướng của lòng bàn tay (Orientation) va (5) Sự diễn tả không bằng tay (Non-manual expression).
Đồng thời, ngôn ngữ kí hiệu cũng có cấu trúc ngữ pháp riêng, không giống như ngữ pháp của ngôn ngữ nói. Ví dụ:
Ngôn ngữ nói - Ngôn ngữ kí hiệu
Tôi ăn táo. ----> Tôi/ táo/ ăn.
Ai nghỉ học hôm nay? ----> Hôm nay/ nghỉ học/ ai?
Tôi không ăn táo. ----> Tôi/ táo/ ăn/ không.
Năm 2019, Bộ chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho người khuyết tật đã bước đầu thống nhất được 408 kí hiệu cơ bản đang trong quá trình lấy ý kiến nhằm thống nhất sử dụng trong các cơ sở giáo dục trên toàn quốc.Chúng tôi rất mong tiếp tục nhận được sự đồng thuận của cộng đồng người Điếc để tiếp tục thống nhất, tạo điều kiện cho người khuyết tật nói chung, người khiếm thính nói riêng có đủ lượng kí hiệu cần thiết nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và hòa nhập cộng đồng.
Ý nghĩa của Bộ Chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu cho người khuyết tật
Theo báo cáo điều tra quốc gia về người khuyết tật Việt Nam năm 2016 của Tổng cục thống kê với sự hỗ trợ kĩ thuật của Unicef, Việt Nam có 2,83% trẻ em khuyết tật trong độ tuổi 2 - 17, trong đó trẻ em khiếm thính chiêm ti lê 0,22% trên tông dân sô, tương đương khoảng 211,000 trẻ em (ước tính theo số liệu thống kê điều tra dân số Việt Nam 2017). Như vậy có thể thấy được nhu cầu rất lớn về việc sử dụng ngôn ngữ kí hiệu trong giáo dục trẻ khiếm thính ở các cơ sở giáo dục. Bộ chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu ra đời sẽ góp phần đáp ứng nhu cầu dạy và học cho học sinh khiếm thính, nhằm đảm bảo quyền và cơ hội tiếp cận giáo dục bình đẳng cho các em.
Ngôn ngữ kí hiệu được "nghe" bằng mắt nên tận dụng được khả năng vượt trội về thị giác, khắc phục các khó khăn về nghe nên sẽ giúp học sinh khiếm tính thuận lợi trong việc tiếp cận, lĩnh hội thông tin và kiến thức. Bởi vậy, Bộ Chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu là căn cứ thống nhất để các cơ sở giáo dục sử dụng trong quá trình dạy và học cho học sinh khiếm thính. Đồng thời, Bộ Chuẩn cũng sẽ là cơ sở để các nhà chuyên môn thống nhất sử dụng các kí hiệu trong quá trình xây dựng học liệu trong giáo dục trẻ khiếm thính, đáp ứng nhu cầu dạy và học trong thời kì công nghệ 4.0.
Bộ Chuẩn ra đời góp phần phổ biến ngôn ngữ kí hiệu trong cộng đồng, giúp cho các lực lượng khác trong xã hội dễ dàng tiếp cận với ngôn ngữ kí hiệu và sẵn sàng tham gia, hỗ trợ giáo dục trẻ khiếm thính.
Như vậy có thể khẳng định, Bộ Chuẩn quốc gia về ngôn ngữ kí hiệu ra đời là cơ sở nền tang bước đầu, tao điều kiện cần thiết để trẻ khiếm thính nói riêng, người khuyết tật nói chung tiếp cận, tham gia giáo dục bình đẳng và có chất lượng.
Trung tâm Giáo dục đặc biệt Quốc gia, Viên Khoa hoc Giáo dục Viêt Nam
Theo giaoducthoidai
Nghị lực phi thường của chàng sinh viên khuyết tật não Sinh ra bi khuyêt tât nao bâm sinh nhưng với nghị lực phi thường, Phan Tich Thiên (TP.HCM) đa nỗ lực học tập và trơ thanh tân cư nhân nganh Xa hôi hoc cua Trương ĐH Văn Hiên. Trong lê tôt nghiêp vừa qua, Phan Tich Thiên la "bông hoa" sang nhât trong hơn 1.400 tân cư nhân cua Trương ĐH Văn Hiên...