Lắt léo chữ nghĩa: Thượng đỉnh là gì?
Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên giảng thượng đỉnh là ‘đỉnh cao nhất’ rồi liền sau đó là thí dụ hội nghị thượng đỉnh với chú thích trong ngoặc đơn là ‘hội nghị cấp cao nhất’.
Tổng thống Mỹ Donald Trump và Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un tại thượng đỉnh Mỹ – Triều diễn ra ở Hà Nội ngày 27.2 – ẢNH: GIA HÂN
Lời giảng này không thực sự xác đáng. Trong tiếng Việt hiện đại, dù là ngôn ngữ văn học hay khẩu ngữ, hai tiếng thượng đỉnh cũng rất ít được dùng với cái nghĩa là “đỉnh cao nhất”. Đây chủ yếu là một thuật ngữ chính trị, như trong thí dụ hội nghị thượng đỉnh mà chính quyển từ điển này đã cho. Nhưng lời chú giải trong ngoặc đơn của nó thì cũng chẳng thỏa đáng tí nào. “Cấp cao nhất” là một cách diễn đạt rất mơ hồ. Cấp cao nhất của một bộ dĩ nhiên là bộ trưởng, nhưng chẳng có ai gọi Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 51 tại Singapore vừa qua (2018), chẳng hạn, là “hội nghị thượng đỉnh” cả.
Video đang HOT
Thượng đỉnh chỉ dùng cho các cuộc hội nghị của các nguyên thủ quốc gia hoặc người đứng đầu chính phủ mà thôi. Đây là một hình thức sao phỏng (loan translation) dùng để dịch danh từ summit của tiếng Anh, thường được giảng một cách đơn giản là “a meeting between heads of government” (hội nghị giữa những người đứng đầu chính phủ), còn chi tiết hơn thì là “an international meeting of heads of state or government, usually with considerable media exposure, tight security, and a prearranged agenda” (hội nghị quốc tế của những người đứng đầu quốc gia hoặc chính phủ, có truyền thông đưa tin rộng rãi, an ninh thắt chặt và một nghị trình được sắp xếp trước). Summit là dạng tắt của summit meeting, cũng gọi là summit conference (ít dùng hơn), đều có nghĩa là “hội nghị thượng đỉnh”.
Thượng đỉnh là một cách dịch của riêng tiếng Việt, hoàn toàn không dính dáng gì đến tiếng Hán. Vì thế, việc từ điển Hoàng Phê dùng hai chữ Hán [] để chú thích cho mục thượng đỉnh là một việc làm vô lý và hoàn toàn vô ích. Trong tiếng Hán thì “hội nghị thượng đỉnh” là thủ não hội nghị [], nói tắt thành thủ não [], hoặc cao phong hội nghị [í92;], nói tắt thành phong hội [í92;]. Trung Quốc cấm văn võng [È13;] có chuyên mục [] “ Mỹ Triều thủ não“. Còn BBC News (Trung văn) ngày 28.2.2019 thì chạy tít [Õ35;í92;] “Kim Chính Ân hòa Đặc Lãng Phổ Việt Nam Hà Nội phong hội”(Donald Trump được phiên âm thành Đặc Lãng Phổ).
Nhưng có ý kiến cho rằng cách dùng thượng đỉnh cũng không hợp lý vì “thượng đã là đỉnh rồi nên thượng đỉnh là thượng lên đỉnh”. Đây là một cách nói thiếu suy nghĩ vì với cách hiểu này thì thượng đỉnh (chữ [] lẽ ra phải đọc là thướng thì mới có nghĩa là “lên”) sẽ là một ngữ vị từ, tức là một cấu trúc cú pháp do vị từ động làm trung tâm.
Còn thượng đỉnh ở đây lại là một danh ngữ chính phụ mà thượng là định ngữ còn đỉnh là bị định ngữ, làm trung tâm của danh ngữ. Phải là danh ngữ thì thượng đỉnh mới được dùng để dịch danh từ summit của tiếng Anh chứ. Nó không phải là kết quả của một cách tạo từ sai trái, mà được tạo ra theo cái mẫu của danh ngữ Thượng đế.
Thượng trong thượng đỉnh cũng có vai trò và ý nghĩa y như Thượng trong Thượng đế. Nếu muốn nói thượng đỉnh bị đặt sai thì phải chứng minh rằng Thượng đếcũng là một cách đặt sai.
Theo thanhnien
Lắt léo chữ nghĩa: 'Kỳ cục' là gì?
Ngoài Bắc nói kỳ quặc, trong Nam nói kỳ cục. Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên giảng kỳ quặc là "kỳ lạ đến mức trái hẳn lẽ thường, khó hiểu". Còn kỳ cục thì sao?
Từ điển phương ngữ Nam bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên giảng là "kỳ lạ, vô cùng, hết sức, tuyệt". Thế là quyển từ điển này chỉ lấy có phần ngọn mà bỏ hẳn phần gốc trong cấu trúc ngữ nghĩa của hai tiếng kỳ cục.
Nói về xuất phát điểm của nó thì dân Nam kỳ dùng hai tiếng kỳ cục để chê chứ đâu có phải để khen. Ta hãy xem Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức giảng thế nào. Là: "Lạ đời ngộ-nghĩnh - Chướng đời khó coi". Tuy không kỳ cục nhưng lại giảng ngược "quy trình". Lẽ ra phải là: "Chướng đời khó coi - Lạ đời ngộ-nghĩnh". "Quy trình" là chê trước khen sau. Cái nghĩa "vô cùng, hết sức, tuyệt" của Từ điển phương ngữ Nam bộ còn có thể thấy với những từ/ngữ "chê trước khen sau" như: dễ sợ, dữ, ghê... Thấy mà ghê thì đúng là chê nhưng Đẹp ghê thì hết chê. Tự-điển Việt Nam của Ban Tu thư Khai-Trí đã giảng đúng boong cái nghĩa gốc - và cũng chỉ giảng có cái nghĩa này mà thôi - của hai tiếng kỳ cục: Khác thường một cách lố bịch. Vậy, nếu quay về với nghĩa gốc của nó, thì kỳ cục trong Nam là kỳ quặc ngoài Bắc.
Nhưng đâu là xuất xứ của hai tiếng kỳ cục? Đây là một cấu trúc đẳng lập tiếng Hán gồm hai thành tố kỳ [] và cục [ì16;]. Kỳ là lạ, hiếm thấy còn cục là cong, hẹp, quanh co. Vì vậy nên kỳ cục [ì16;] thường được giảng là "tân kỳ khúc chiết" [], tức "mới lạ, lắt léo". Cấu trúc đẳng lập này có một danh ngữ đồng âm mà chữ Hán là [ì16;]. Hai chữ Hán ( kỳ cục) này vốn có nghĩa là bàn cờ, tức kỳ bàn [] nhưng ngày nay thường được hiểu là cái thế trận, cái nước đi của hai đối thủ trên bàn cờ. Vì vậy nên người ta đã chơi chữ mà tạo ra cái cấu trúc Chủ - Vị (nhận định, tường thuật) thú vị là kỳ cục kỳ cục [ì16;ì16;] để khen cái nước đi mới lạ, lắt léo, khó đối phó trên bàn cờ. Khốn nỗi dân Việt miền Nam lại không biết được cái nghĩa gốc chính xác của hai tiếng kỳ cục nên lại dùng nó để chê cái mới mà không hay, cái lạ mà lại tệ, nghĩa là đã xài nó theo cái nghĩa đã cho trong Tự-điển Việt Nam của Ban Tu thư Khai-Trí.
Đó là hệ quả của từ nguyên dân gian (folk etymology). Vì chỉ hiểu kỳ cục một cách chung chung mà không biết nghĩa gốc của nó trong tiếng Hán là gì nên người ta đã đánh đồng chữ cục của nó với cục trong cục cằn, cục mịch, cục súc..., mà xài hai tiếng đó theo cái nghĩa "chướng đời khó coi" (Lê Văn Đức), "khác thường một cách lố bịch" (Ban Tu thư Khai-Trí). Phải nói thẳng rằng nhiều khi diễn tiến ngữ nghĩa của một số từ, ngữ đã đi theo một lộ trình kỳ cục chỉ vì sự không biết chữ.
Theo thanhnien
Lắt léo chữ nghĩa: Báo cô & bảo kê Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển học (Vietlex) do Hoàng Phê chủ biên đã ghi nhận mục báo cô nhưng chỉ ghi chú chữ Hán cho mục này là [á77;] chứ không giảng mà lại chuyển chú đến mục ăn báo cô. Còn ăn báo cô thì được giảng là "ăn hại, ăn bám người khác mà chẳng giúp ích...