Lần cuối Mỹ trao công nghệ hạt nhân cho đồng minh, Pháp từng đòi rời NATO
Vụ phản đối Washinton bán tàu ngầm hạt nhân cho Canberra không phải lần đầu tiên Paris lên tiếng lo ngại về việc người Mỹ chia sẻ công nghệ hạt nhân hoặc có quyền lực đối với năng lực hạt nhân của một quốc gia khác.
12 tàu ngầm trong hợp đồng mua sắm giữa Australia và Pháp đã được đóng tại Adelaide, song dự án này nhiều khả năng đã bị xoá bỏ. Ảnh minh hoạ: Navy Imagery Unit
Ngày 17/8, Pháp đã triệu hồi Đại sứ Mỹ và Australia tại nước này để phản đối hiệp ước quốc phòng ba bên mới giữa Mỹ, Anh và Australia, dẫn đến việc Canberra huỷ thoả thuận mua tàu ngầm của Paris để chuyển sang tàu ngầm hạt nhân của Washington. Thế nhưng đây không phải vụ tranh cãi đầu tiên giữa Pháp và các đồng minh về vũ khí hạt nhân.
Bộ ba nhà lãnh đạo Mỹ, Anh và Australia vừa thông báo thành lập liên minh an ninh AUKUS hôm 15/9 nhằm tăng cường sức mạnh tại khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương. Tuy nhiên, bị gạt ngoài hiệp ước trên, Ngoại trường Pháp Minister Jean-Yves Le Drian giận dữ lên án động thái này như một “cú đâm sau lưng”.
Clement Beaune, Bộ trưởng Bộ các vấn đề châu Âu của Pháp nói: “Tôi không rõ chúng ta có thể tin tưởng các đối tác Australia thế nào nữa” , đồng thời cho rằng điều đó sẽ gây nguy hiểm cho những đàm phán thương mại đang diễn ra giữa Australia và Liên minh châu Âu (EU).
Như là một kết quả của thoả thuận mới, Australia đã huỷ hợp đồng trị giá 90 tỷ USD với Tập đoàn Hải quân Pháp để mua loạt tàu nhầm lớp Barracuda chạy bằng dầu diesel. Thay vào đó, Australia sẽ xây dựng tàu ngầm tấn công năng lượng hạt nhân riêng, giống phiên bản được cấp phép của Mỹ hoặc Anh.
Vì Australia không có chương trình hạt nhân dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả đối với các nhà máy điện hạt nhân, quốc gia châu Đại Dương này cần được trao hoặc mượn công nghệ đó. Đó là sự thay đổi to lớn trong cán cân quyền lực, vì cả tàu ngầm của Mỹ và Anh đều được chạy bằng chất urani cấp vũ khí (hàm lượng từ 85% trở lên). Tuy nhiên, Thủ tướng Australia Scott Morrison khẳng định đất nước ông không tham vọng sở hữu vũ khí hạt nhân.
Theo Đài Sputnik, đây không phải lần đầu Paris lên tiếng lo ngại về việc người Mỹ chia sẻ công nghệ hạt nhân hoặc có quyền lực đối với năng lực hạt nhân của một quốc gia khác. Hồi thập niên 1960, Paris từng doạ rút khỏi Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương ( NATO) để phản đối động thái của Washington.
Khủng hoảng Skybolt
Những năm đầu Chiến tranh Lạnh, phương pháp chủ yếu để tấn công mục tiêu bằng vũ khí hạt nhân là máy bay ném bom hạng nặng thả bom trọng lực từ trên cao. Tại thời điểm đó tên lửa đã được phát triển nhưng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) có tầm bắn toàn cầu và “người anh em” tên lửa đạn đạo (SLBM) phóng từ tàu ngầm vẫn còn trong giai đoạn sơ khai và hầu hết các quốc gia chưa sở hữu chúng.
Tên lửa đạn đạo phóng từ trên không Douglas GAM-87/AGM-48 Skybolt (ALBM). Ảnh: Wikipedia
Không có khả năng cất giấu hàng loạt ICBM trên đất liền, thay vào đó, Anh lại hướng tới việc hoàn thiện các tên lửa đạn đạo phóng từ trên không (ALBM) cho máy bay ném bom Vulcan để bắn vũ khí hạt nhân vào Liên Xô và các đồng minh. Tuy nhiên, vì những nỗ lực trong chương trình Blue Steel không mang lại một vũ khí hữu ích, nên London đã tìm mua tên lửa Skybolt do Mỹ thiết kế, có tầm bắn xa hơn nhiều, làm nền tảng để đặt toàn bộ kho vũ khí hạt nhân của mình.
Khi chi phí cho chương trình Skybolt tăng lên, chính quyền Tổng thống John F. Kennedy ở Washington trở nên hoài nghi về Skybolt, đồng thời nhận thấy các SLBM Polaris mới tốt hơn về mọi mặt. Một số nhân vật chính quyền trung ương cũng tỏ ra nghi ngờ về giá trị của kho vũ khí hạt nhân riêng biệt của Anh và liệu nó có phải là một tài sản trong cuộc đọ sức chiến lược với Liên Xô hay không. Nhiều người không tin tưởng London sẽ hành xử một cách có trách nhiệm với vũ khí hạt nhân sau cuộc Khủng hoảng Suez năm 1956 khi nước này tiến hành cùng với Paris và Tel Aviv mà Washington không hề hay biết.
Video đang HOT
“Tôi không nghĩ rằng chúng ta sẽ nhận được 2,5 tỷ USD an ninh quốc gia từ chương trình Skybolt”, Tổng thống Kennedy nói với một phóng viên vào tháng 12/1962.
Thậm chí thẳng thắn hơn, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson khi đó nhận xét rằng: “Nỗ lực của Anh để đóng một vai trò quyền lực riêng biệt – tức là một vai trò ngoài châu Âu, một vai trò dựa trên mối quan hệ đặc biệt với Mỹ, vai trò dựa trên việc trở thành người đứng đầu của một Khối thịnh vượng chung không có cấu trúc chính trị hoặc sự thống nhất hay sức mạnh và có mối quan hệ kinh tế mong manh và bấp bênh – sắp được phát huy”.
Thái độ này đã gây ra một cuộc khủng hoảng ở London, đe dọa làm sụp đổ chính phủ dưới thời Thủ tướng Anh Harold MacMillan. Sự kết thúc của chính quyền ông MacMillan sẽ là dấu chấm hết cho hy vọng gia nhập Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) – một hiệp ước thương mại đang phát triển sau này đóng vai trò là cơ sở cho EU.
Để giải quyết vấn đề này, nhóm nhà lãnh đạo Mỹ và Anh đã gặp nhau tại Bahamas và đưa ra một thỏa thuận nhằm tạo ra lực lượng hạt nhân đa phương của NATO. Theo đó, đầu đạn của Anh sẽ được trang bị trên tên lửa Polaris của Mỹ và được đặt trên tàu ngầm lớp Resolution của Anh. Và London sẽ chỉ có thể sử dụng chúng riêng biệt trong trường hợp xảy ra khủng hoảng quốc gia. Do đó, quyền kiểm soát cuối cùng đối với các lực lượng hạt nhân của Anh do Washington nắm giữ chứ không phải London.
Sự phẫn nộ của Pháp
Năm sau đó, Tổng thống Pháp Charles de Gaulle bỏ phiếu chống lại đơn xin gia nhập EEC của Anh, trích dẫn sự lệ thuận của Anh vào Mỹ. Chính trị gia này từ lâu đã nghi ngờ về nguyện vọng gia nhập của London, xem những lợi ích kinh tế của Anh và Pháp là “không tương thích” trong thời kỳ hậu chiến, đồng thời cho rằng Anh có sự thù địch sâu sắc với dự án EEC của châu Âu.
Tổng thống Mỹ John F. Kennedy và Tổng thống Pháp Charles De Gaulle sau khi kết thúc cuộc hội đàm tại Điện Elysee, ngày 2/6/1961. Ảnh: John Fitzgerald Kennedy Library
Ông De Gaulle không chỉ thiếu tin tưởng về cam kết của Mỹ hay Anh đối với các lợi ích của Pháp. Ông cũng được cho là nghi ngờ toàn thể liên minh NATO, coi cấu trúc quân sự chung của khối này như một sự áp đặt đối với chủ quyền của Pháp. Là một cường quốc hạt nhân, ông De Gaulle yêu cầu Pháp có tiếng nói bình đẳng trong chiến lược liên minh, giống như Mỹ và Anh. Khi điều này bị bác bỏ, ông từng tuyên bố vào năm 1966 rằng Paris sẽ rút khỏi cơ cấu quân sự chung trên cũng như ra lệnh cho tất cả các lực lượng nước ngoài rời khỏi đất nước. Kết quả là, trụ sở của NATO ngày nay là ở Brussels, Bỉ.
Cùng năm đó, Tổng thống De Gaulle đã xung đột với các thành viên EEC khác về điều mà ông coi là xâm phạm nhiều hơn vào chủ quyền của Pháp. Ông cũng kêu gọi tẩy chay Ủy ban châu Âu trong vài tháng liên quan đến cái gọi là “cuộc khủng hoảng ghế trống” – giải pháp trao quyền phủ quyết đối với mọi nhà nước về những vấn đề được đánh giá là có lợi ích quốc gia lớn.
Paris không “ly hôn” hoàn toàn với NATO mà ký các cam kết quốc phòng riêng, trong đó có cam kết thống nhất với NATO trong trường hợp xảy ra chiến tranh hạt nhân với Liên Xô. Phải mất 43 năm vết rạn nứt này mới hoàn toàn lành lại. Pháp chỉ tái gia nhập cơ cấu chỉ huy chung dưới thời Tổng thống Nicolas Sarkozy vào năm 2009, rất lâu sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc.
"Bóng dáng" Trung Quốc phía sau thỏa thuận lịch sử của Mỹ và đồng minh
Mặc dù cam kết an ninh mới của Mỹ, Anh và Australia hoàn toàn không đề cập cụ thể tới Trung Quốc, nhưng "yếu tố Bắc Kinh" được cho là phủ bóng thỏa thuận này.
Tổng thống Mỹ Joe Biden, Thủ tướng Australia Scott Morrison, Thủ tướng Anh Boris Johnson và đã có cuộc gặp tại hội nghị thượng đỉnh G7 ở Cornwall, Anh vào tháng 6/2021 (Ảnh: Adam Taylor).
Một quan hệ đối tác an ninh mới ở châu Á - Thái Bình Dương có tên gọi AUKUS vừa được công bố, cho phép Anh và Mỹ cung cấp công nghệ tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân cho Australia. Một quan chức cấp cao của Mỹ mô tả AUKUS là thỏa thuận "lịch sử", cho thấy quyết tâm của chính quyền Tổng thống Joe Biden xây dựng một liên minh mạnh mẽ hơn nhằm duy trì hòa bình và ổn định ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.
Mặc dù giới chức Mỹ khẳng định sự ra đời của AUKUS không nhằm chống lại Trung Quốc, nhưng các chuyên gia cho rằng thỏa thuận này đã báo hiệu sự thay đổi về chiến lược và chính sách trên toàn khu vực, trong đó phải tính đến Bắc Kinh.
Theo BBC , thời điểm công bố thỏa thuận mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. AUKUS được thiết lập chỉ một tháng sau khi Mỹ rút khỏi Afghanistan, trong bối cảnh có những nghi ngờ đã được đặt ra về cam kết của Mỹ trong khu vực.
Trong khi đó, Anh cũng mong muốn can dự sâu hơn vào khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là sau khi nước này rời Liên minh châu Âu (EU), còn Australia ngày càng lo ngại về ảnh hưởng của Trung Quốc.
"Đây là một "thỏa thuận lớn" vì (AUKUS) cho thấy rằng, cả 3 quốc gia đều đang vạch ra một ranh giới để bắt đầu đối phó với các động thái quyết liệt của Trung Quốc ở Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Thỏa thuận này công khai thể hiện lập trường phối hợp của chúng tôi về vấn đề này cũng như cam kết đối với một khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương ổn định và an toàn - điều mà 70 năm qua đã mang lại sự thịnh vượng cho tất cả các nước trong khu vực, bao gồm cả tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc", Guy Boekenstein, quan chức an ninh cấp cao của chính quyền Lãnh thổ Bắc Australia, cho biết.
Công nghệ nhạy cảm
Theo công bố của Mỹ, Anh và Australia, thỏa thuận AUKUS bao gồm việc chia sẻ thông tin và công nghệ trong một số lĩnh vực như tình báo, công nghệ lượng tử, tên lửa hành trình. Tuy nhiên, nội dung quan trọng nhất của thỏa thuận là hợp tác về tàu ngầm hạt nhân. Các tàu này sẽ được đóng tại thành phố Adelaide ở nam Australia với sự tham vấn của Mỹ và Anh về công nghệ sản xuất.
"Tàu ngầm hạt nhân có năng lực phòng thủ to lớn và do vậy ảnh hưởng đến cả khu vực. Chỉ có 6 quốc gia trên thế giới có tàu ngầm hạt nhân. Dù chưa cần trang bị vũ khí hạt nhân, song các tàu ngầm này vẫn có khả năng răn đe đáng kể", Michael Shoebridge, giám đốc quốc phòng, chiến lược và an ninh quốc gia tại Viện Chính sách Chiến lược Australia, nhận định.
Các tàu ngầm hạt nhân có khả năng tàng hình cao hơn nhiều so với các tàu ngầm thông thường. Chúng hoạt động yên tĩnh hơn, có thể di chuyển dễ dàng và khó bị phát hiện hơn.
Nhấn để phóng to ảnh
Các nước sở hữu tàu ngầm hạt nhân (Đồ họa: BBC).
Ít nhất 8 tàu ngầm sẽ được đóng, dù chưa rõ khi nào chúng sẽ được triển khai. Australia khẳng định tàu ngầm mới không được trang bị vũ khí hạt nhân, mà chỉ được cung cấp năng lượng hạt nhân.
Theo Yun Sun, đồng giám đốc Chương trình Đông Á tại Trung tâm Stimson, thỏa thuận AUKUS cho thấy Mỹ và Anh sẵn sàng thực hiện một bước đi đột phá trong việc xuất khẩu công nghệ hạt nhân sang một quốc gia không sở hữu vũ khí hạt nhân. Chính điều này đã làm nên sự đặc biệt của AUKUS.
"Tàu ngầm hạt nhân là công nghệ cực kỳ nhạy cảm. Đây là một ngoại lệ trong chính sách của chúng tôi trên nhiều khía cạnh. Tôi không cho rằng sẽ có thêm ngoại lệ như vậy trong các trường hợp khác sau này. Chúng tôi xem đây là một lần duy nhất", một quan chức Mỹ nói với Reuters .
"Bóng dáng" Trung Quốc
AUKUS được công bố trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng có nhiều động thái phô diễn sức mạnh và tầm ảnh hưởng trong khu vực.
"Chúng ta đã nghe thấy những tuyên bố về sự hợp tác và sau đó chúng ta chứng kiến những mối đe dọa nhằm vào Đài Loan, các sự kiện ở Hong Kong và việc quân sự hóa nhanh chóng ở Biển Đông. Vì vậy, khi nói đến các vấn đề chiến lược, các biện pháp răn đe dường như là cách duy nhất có ý nghĩa chống lại Trung Quốc", ông Shoebridge nói.
Mỹ đang đầu tư mạnh mẽ vào các quan hệ đối tác trong khu vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Philippines, Ấn Độ. Theo ông Shoebridge, thỏa thuận AUKUS có thể mang lại lợi ích cho tất cả các nước này trước những lo ngại về sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc.
"Thông báo (về thỏa thuận AUKUS) phù hợp với sự tham gia ngày càng nhiều của các nền dân chủ lớn nhất thế giới để ngăn chặn Trung Quốc sử dụng sức mạnh của họ", ông Shoebridge nói thêm.
Mặc dù AUKUS không đề cập cụ thể tới Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh vẫn "phủ bóng" nội dung của thỏa thuận này.
"Thỏa thuận này hoàn toàn được thúc đẩy bởi những lo ngại về Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc không được đề cập trong các tuyên bố, nhưng tất cả đều liên quan tới Trung Quốc", giáo sư David Capie, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu chiến lược tại Đại học Victoria, New Zealand, nhận định.
Trong 20 năm qua, Australia vẫn đang cố gắng duy trì mối quan hệ tốt đẹp với cả Mỹ và Trung Quốc - đối tác thương mại lớn nhất của Australia. Tuy nhiên, với việc thông qua AUKUS, Australia dường như đã thể hiện lập trường rõ ràng hơn, đó là nghiêng về phía Mỹ, thay vì Trung Quốc.
Trong tương lai gần, quan hệ Australia - Trung Quốc được dự đoán sẽ rơi vào một thời kỳ lạnh nhạt, khi Bắc Kinh có thể xem xét trừng phạt Canberra vì thỏa thuận AUKUS. Thủ tướng Australia cho biết nhà lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã có "lời mời cởi mở" để thảo luận về thỏa thuận mới.
Theo CNN , Australia không đơn độc trong việc xích lại gần Mỹ. Richard McGregor, chuyên gia cao của Viện Lowy, cho biết các thành viên khác của liên minh an ninh "Bộ Tứ", gồm Ấn Độ và Nhật Bản, cũng đang làm việc với chính quyền Tổng thống Joe Biden để đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc.
"AUKUS chỉ là một trong nhiều thỏa thuận và quan hệ đối tác khác nhau đang được xây dựng trên toàn khu vực để đối phó với Trung Quốc", ông McGregor cho biết.
Kể từ khi nhậm chức, Tổng thống Biden đã đưa ra nhiều sáng kiến hợp tác địa chính trị khác nhau được cho là nhằm đối phó Trung Quốc, trong đó có nỗ lực thúc đẩy quan hệ với NATO, G7, Bộ Tứ (Mỹ, Nhật Bản, Australia, Ấn Độ), Ngũ Nhãn (Mỹ, Anh, Canada, New Zealand, Australia). Tuần tới, ông Biden sẽ tiếp các lãnh đạo Bộ Tứ trong khuôn khổ hội nghị thượng đỉnh trực tiếp đầu tiên của khối này tại Nhà Trắng.
Chuyên gia cảnh báo việc Pháp triệu hồi đại sứ chỉ là 'phần nổi của tảng băng chìm' Các nhà phân tích cảnh báo rằng quyết định chưa từng có về việc triệu hồi các đại sứ từ Mỹ và Australia của Pháp không chỉ là một sự trả đũa ngoại giao. Ngoại trưởng Pháp Jean-Yves Le Drian. Ảnh: Guardian Theo trang Guardian (Anh), động thái triệu hồi đại sứ từ Mỹ và Australia của Pháp được đưa ra nhằm phản...