Làm được gì sau khi học?
Trăn trở này không chỉ có tôi mà rất nhiều phụ huynh. Dù chương trình mới hay cũ, điều quan trọng nhất là ứng dụng kiến thức đã học vào thực tiễn.
Ảnh minh họa
Môn tiếng Việt theo tinh thần là dạy cho học sinh 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết cho thành thạo nhưng không ít lần tôi bắt gặp những lá đơn xin phép đầy lỗi chính tả, chữ viết cẩu thả, dấu chấm, dấu phẩy loạn xạ của những em học sinh dù đang học ở cấp 2.
Dường như hiện nay, vấn đề chữ viết của học sinh chưa được quan tâm đúng mức. Tôi nhớ những ngày đi học, các thầy cô giáo rất chú trọng đến việc rèn chữ viết cho học sinh. Tư thế cầm viết, ngồi vào bàn thế nào để không mỏi tay, hoa mắt. Đặc biệt là phải dùng bút bơm mực thì nét chữ mới được chỉnh chu.
Một bài chính tả có thể được viết đi, viết lại nhiều lần để nhớ những từ khó cũng như để nét chữ được cứng cáp hơn. Có nhiều lúc đầu óc mệt mỏi, tay lấm lem mực nhưng trong lòng thì vui vô cùng vì được thầy cô khen là cân đối và đúng chính tả.
Tôi và bạn bè của mình luôn cố gắng luyện tập bởi vì viết không rõ ràng và sai chính tả thì sẽ bị trừ điểm.
Bây giờ, trẻ con phải học nhiều môn hơn ngày xưa nên có ít thời gian luyện chữ viết chăng? Các em cũng đã bắt đầu làm quen với cây viết bi. Phải chăng đây là một trong những nguyên nhân làm cho nét chữ mất đi vẻ đẹp chân phương của nó?
Ngày xưa, chúng tôi phải viết những bài tập thầy cô cho về nhà để làm và xem đây là dịp để rèn luyện chữ viết của mình. Bây giờ, mọi việc đã có trong sách bài tập, tài liệu photo với những dòng chừa trống bên dưới để làm bài, học sinh chỉ cần điền vào đó là xong!
Xã hội hiện đại, việc dạy và học cũng được nhiều thiết bị hỗ trợ hơn nhưng nét chữ dần mất đi cái hồn của nó. Hàng năm vẫn có những cuộc thi Văn hay chữ tốt hay Vở sạch chữ đẹp nhưng chỉ dành cho học sinh khá, giỏi và được các thầy cô bồi dưỡng theo kiểu luyện gà chọi.
Video đang HOT
Đại bộ phận còn lại thì cứ vô tư với chữ viết của mình. Các em viết theo kiểu văn nói hàng ngày hay dùng ngôn ngữ mạng, có đôi lúc còn dùng những từ ngữ mà chỉ có các em mới hiểu và ít quan tâm đến vấn đề chính tả đúng hay sai.
“Con cá này làm thế nào cho sạch vậy mẹ ?” – Một lần, đến thăm nhà một người bạn, chợt nghe con gái của chị – Một cô bé học lớp 10 hỏi chị như thế. Lần khác, khi đi dã ngoại cùng gia đình, tôi chứng kiến 2 cô cậu đang ở độ tuổi teen cứ loay hoay với nồi cơm nửa sống nửa chín và cuối cùng là đem bỏ đi!
Quả thật, có những việc hết sức đơn giản nhưng nhiều cô cậu bé đang ở độ tuổi mới lớn không thể nào làm được. Ở góc độ xã hội, tôi gọi những cô cậu bé này là những đứa trẻ nhiều tuổi bởi vì cách ứng xử của các em cho thấy rằng các em còn thiếu những kỹ năng sống cần thiết ở lứa tuổi của mình.
Những bài học về kỹ năng qua những hoạt động học tập, trải nghiệm chưa được các em thẩm thấu một cách nghiêm túc. Có em còn được cha mẹ cho tham gia những câu lạc bộ, trại hè … với mục đích tích lũy thêm kinh nghiệm cho bước đường đời sau này, tuy nhiên đâu lại vào đấy khi các em trở về nhà!
Nhiều cô cậu thành thạo trong việc sử dụng mạng xã hội nhưng không biết làm thế nào để chuẩn bị một bữa ăn cho gia đình hay sửa chữa những vật dụng hư hỏng trong nhà.
Bộ môn Giáo dục thể chất trong nhà trường chỉ đơn thuần là giảng dạy các động tác, bài tập liên quan đến từng phân môn thể thao chứ ít chú trọng đến vấn đề bảo vệ sức khỏe khi tham gia thể thao. Việc thiếu giáo viên chuyên trách am hiểu về những kiến thức y sinh học để nâng cao sức khỏe và thành tích của người tập cũng như định hướng cho học sinh chọn lựa môn thể thao thích hợp ảnh hưởng đến việc rèn luyện và nâng cao thể chất cho học sinh.
Đó là chưa kể việc cơ sở vật chất phục vụ tập luyện chưa đáp ứng được yêu cầu cơ bản, có nhiều khi phải tập “chay “. Đa số các tiết thể dục trong tuần chỉ giúp cho học sinh thư giãn, giải tỏa áp lực học tập chứ không thể coi là tập luyện thể thao, rèn luyện sức khỏe đúng nghĩa.
Chỉ vì được luyện tập một cách máy móc nên giờ học thể dục chưa thực sự tạo được sự hứng khởi cho học sinh cũng như hiệu quả tích cực của việc làm thế nào để chơi thể thao đúng cách lan tỏa đển cộng đồng .
Môn Âm nhạc đã được giảng dạy tại bậc tiểu học, trung học cơ sở và theo lộ trình thực hiện chương trình mới bậc trung học phổ thông cũng sẽ thực hiện môn năng khiếu này. Ở góc độ chuyên môn, tôi cho rằng các giáo trình soạn thảo hiện nay quá hàn lâm với lý thuyết, nhạc lý mà quên đi tính quần chúng của âm nhạc hay nói đúng hơn là hướng học sinh đến với âm nhạc theo cách dân gian thường làm – Dạy cho các em biết hát những ca khúc theo kiểu bắt chước trước khi hiểu thế nào là cao độ, trường độ, dấu thăng, dấu giáng … Khi học sinh mệt mỏi với những kiến thức âm nhạc bác học, cảm hứng để hát cũng dần dần tan biến và mất đi. Có quá lời không khi nói rằng : Âm nhạc hiện nay đang thiếu những ca khúc hay cho lứa tuổi thiếu niên nhi đồng.
Ngày xưa, có những thế hệ nhạc sĩ yêu trẻ con, gần gũi và đồng cảm vì thế luôn có những sáng tác đi vào lòng người : Chiếc đèn ông sao của Phạm Tuyên, Trường làng tôi của Phạm Trọng Cầu hay Em là hoa hồng nhỏ của Trịnh Công Sơn…
Đời sống âm nhạc hiện nay dường như có sự không công bằng khi nhạc trẻ, nhạc giải trí được phổ biến nhiều hơn, lực lượng sáng tác những thể loại này và người nghe cũng nhiều hơn và chính những yếu tố như thế ảnh hưởng đến việc cảm thụ và thẩm thấu âm nhạc của trẻ.
Có những thí sinh lứa tuổi thiếu niên lại vô tư hát những ca khúc của người lớn tại những cuộc thi trên truyền hình và những lời nhận xét có cánh của ban giám khảo vô tình làm cho các thí sinh và ngay cả khán giả cùng trang lứa hay thậm chí là các bậc cha mẹ ngộ nhận rằng điều đó là đúng và thế là việc bắt chước hát theo cũng xuất phát từ đây.
Có rất nhiều điều đáng nói trong việc giáo dục trẻ tại nhà trường hiện nay. Người lớn sẽ có lỗi nếu để trẻ tiếp nhận kiến thức một cách thụ động mà không vận dụng được nhiều vào cuộc sống với những kiến thức chỉ nằm trên sách giáo khoa mà không được tương tác hiệu quả với môi trường bên ngoài.
Định hướng và lan tỏa cái hay, cái đẹp theo tâm sinh lý lứa tuổi là một việc rất cẩn thiết để trẻ có được những kỹ năng sống cần thiết cho chính mình và phục vụ tích cực cho cộng đồng chứ không phải là những con điểm đẹp làm tiêu chí cho những thành tích ghi nhận trên giấy hiện nay.
Nhận xét nhiều học sinh cùng lúc: Khó khả thi, dẫn tới đối phó
Nhiều giáo viên cho rằng, Thông tư 26/2020 của Bộ GD&ĐT về Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS-THPT (có hiệu lực từ tháng 11) yêu cầu vừa nhận xét vừa cho điểm với tất cả các môn là bất hợp lý, khó tránh khỏi cách làm hình thức, đối phó.
Mỗi học sinh đều phải được nhận xét, đánh giá theo các hình thức khác nhau và phù hợp thực tiễn dạy học. Ảnh: Nguyễn Hà
Khó nhớ hết học sinh
Thông tư 26 quy định, giáo viên kết hợp giữa đánh giá bằng nhận xét và đánh giá bằng điểm số đối với tất cả các môn học còn lại (theo quy định cũ, chỉ đánh giá bằng nhận xét với các môn Mỹ thuật, Âm nhạc, Thể dục; đánh giá bằng điểm số với các môn còn lại như Toán, Ngữ văn, Lịch sử, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Giáo dục công dân...).
Trong đó, đánh giá bằng nhận xét yêu cầu đánh giá rõ về sự tiến bộ, thái độ, hành vi và kết quả thực hiện các nhiệm vụ học tập của học sinh sau mỗi học kỳ, cả năm học. Đánh giá bằng điểm số theo thang điểm 10 kết quả thực hiện các yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng đối với môn học quy định trong chương trình giáo dục phổ thông.
Cô Nguyễn Thị Thu Nguyệt, giáo viên dạy Địa lý ở một trường THPT tại TPHCM, cho rằng, sự thay đổi này bất hợp lý và thêm việc cho giáo viên. Ở lớp 10, lớp 11, môn Địa lý chỉ có 1 tiết/tuần; cùng lúc, cô Nguyệt đứng 10 lớp với khoảng 500 học sinh. Với 45 phút trên lớp, cô giảng bài là chủ yếu, có rất ít thời gian để tương tác, ghi nhớ đặc điểm của từng học sinh để có thể nhận xét bằng lời. Đồng nghiệp của cô dạy 22 lớp, môn Giáo dục quốc phòng.
"Đánh giá bằng điểm số và nhận xét phù hợp ở các môn như Toán, Văn, Ngoại ngữ vì mỗi tuần có đến 2-3 tiết, giáo viên chỉ dạy 2-3 lớp hoặc ở bậc tiểu học, giáo viên chỉ đứng 1 lớp. Còn yêu cầu giáo viên các môn khác nhận xét khó tránh khỏi chuyện nhận xét hình thức, đối phó", cô Nguyệt nói.
Cô Nguyễn Thị Thuỷ, giáo viên dạy Lịch sử, Trường THPT Nguyễn Huệ (Hà Tĩnh), cho rằng, không nhất thiết phải nhận xét bằng lời vào học bạ, vì trong quá trình học luôn có sự tương tác giữa giáo viên và học sinh như hỏi bài, trả lời câu hỏi học tập... Khi học sinh trả lời đúng hoặc sai, giáo viên đều có nhận xét cho từng em. Hay đang trong giờ học, có học sinh nghịch ngợm, không tập trung, giáo viên cũng nhắc nhở trực tiếp, giúp em đó tiến bộ. Đó là đánh giá cả quá trình, vì thế yêu cầu nhận xét bằng lời vào sổ đối với môn nhiều lớp sẽ khiến giáo viên rất vất vả, cô Thủy nói.
Thầy Lê Ngọc Nội, người có nhiều năm làm hiệu trưởng Trường THPT Sầm Sơn (Thanh Hoá), nói rằng, dù Ban giám hiệu có yêu cầu giáo viên các bộ môn đánh giá, nhận xét đặc điểm, thái độ từng học sinh, nhưng cũng khó có thể thực hiện được. Hai nhóm học sinh có thể nhận xét chính xác là học sinh giỏi và học sinh yếu kém vì các em khá nổi bật trong lớp, còn với học sinh trung bình, khó đòi hỏi giáo viên nhận xét chi tiết từng em. Trường hiện thiếu giáo viên, có môn, giáo viên phải dạy 13 lớp cùng lúc. Do đó, nhận xét bằng điểm số vẫn là chính, còn nhận xét bằng lời chỉ đánh giá về tinh thần, thái độ học tập chung, thầy Nội nói.
"Chỉ đánh giá điểm số là vô cảm"
Thầy Nguyễn Văn Hoà, Chủ tịch Hội đồng Trường THCS-THPT Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hà Nội), nhận định, thay đổi đánh giá học sinh cả điểm số và nhận xét là rất nhân văn, vì lâu nay chỉ đánh giá quá trình học tập của học sinh bằng điểm sẽ đơn giản với giáo viên, nhưng vô cảm với các em. Học tập là cả quá trình, nhiều em học tập rất chăm chỉ, có ý thức, nhưng khi kiểm tra, có thể vì lý do nào đó, điểm chưa cao hoặc ngược lại, có học sinh học tập chưa nghiêm túc, nhưng kiểm tra đạt điểm tốt. Do đó, giáo viên dù dạy môn 1 tiết/tuần hoặc dạy nhiều lớp vẫn phải biết học sinh có thái độ, cảm xúc ra sao. Biết là chưa đủ mà còn phải quan sát để hiểu từng học sinh, quan tâm đến từng em để có phương pháp dạy học hiệu quả, giúp từng học sinh tiến bộ.
Tuy nhiên, thầy Hoà cũng cho rằng, để làm được điều đó rất khó, giáo viên vất vả, bận rộn hơn. Vì thế, hiệu trưởng phải lao tâm khổ tứ tìm cách thay đổi cách nghĩ của giáo viên, giúp họ tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện về thời gian. "Nếu không, người ta sẽ làm theo kiểu đổi phó, cho xong. Giáo dục không nên đối phó, vô cảm vì thầy cô dạy học chính là đào tạo con người. Có những môn học chỉ 1 tiết/tuần nhưng giáo viên vô cảm, học sinh không hào hứng, thậm chí bị xúc phạm cũng ảnh hưởng tâm lý của em đó đến nhiều năm sau", thầy nói.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học - Bộ GD&ĐT, nói rằng, việc kiểm tra, đánh giá thường xuyên được thực hiện trong quá trình tổ chức các hoạt động học và được thiết kế ở kế hoạch bài dạy thông qua các hình thức như: hỏi - đáp, viết, thực hành, thí nghiệm, thuyết trình, sản phẩm học tập... Với mỗi hình thức này, khi đánh giá bằng điểm số, giáo viên phải thông báo trước cho học sinh và định hướng cho các em tự học.
Còn nhận xét bằng lời được chú trọng qua cả quá trình học và kết quả thực hiện của học sinh theo yêu cầu của câu hỏi, bài tập, bài thực hành, thí nghiệm, thuyết trình, sản phẩm học tập đã được nêu cụ thể trong kế hoạch bài dạy. "Việc đánh giá học sinh bằng lời nhận xét, giáo viên phải cụ thể vào bài học, nội dung học tập, chứ không nhận xét chung chung", ông Thành nói.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Vụ trưởng Vụ Giáo dục trung học - Bộ GD&ĐT, cho rằng, nếu giáo viên dạy các môn ít tiết (35 tiết/ năm), có số học sinh đông, cần kết hợp đánh giá một cách linh hoạt. Có thể nhận xét trực tiếp trong giờ học đối với một số học sinh, nhất là những em cần quan tâm, giúp đỡ; nhận xét vào bài kiểm tra viết hoặc bài tập, nhiệm vụ vận dụng được giao về nhà...
Kiểm tra cuối học kỳ I: Thay đổi đề thi theo hướng đánh giá năng lực Kiểm tra cuối học kỳ I năm học 2020-2021 diễn ra khi dịch COVID-19 vẫn còn diễn biến phức tạp nên ngành giáo dục phải thực hiện nhiệm vụ "kép", vừa tuân thủ quy định phòng, chống dịch COVID-19 vừa đổi mới cách đánh giá. Hôm nay, ngày 21/12, học sinh Trường THCS Huỳnh Khương Ninh (Q.1, TP.HCM) bước vào kiểm tra học...