Kỳ vọng cách dạy và học từ thi nghiên cứu KH
Từ năm 2013, Bộ GD-ĐT chính thức triển khai kỳ thi học sinh nghiên cứu khoa học, kỹ thuật cấp quốc gia. Đến nay đã có hơn 30 tỉnh, thành trên cả nước hưởng ứng.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng kỳ thi khó có tác động trực tiếp tới hoạt động dạy học chính khóa như kỳ vọng của Bộ GD-ĐT nếu các trường hiện nay vẫn coi đó như một hoạt động mang tính phong trào.
Kỳ vọng thay đổi cách dạy – học
Lần đầu tiên VN có thí sinh dự kỳ thi khoa học kỹ thuật (ISEF) dành cho học sinh trung học tại Mỹ cách đây năm năm. Tuy nhiên ba năm đầu, việc lựa chọn học sinh đi thi là do một doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin đứng ra hướng dẫn, tuyển chọn, tài trợ và thắng lợi thu về chỉ là những trải nghiệm mới mẻ.
Từ năm 2012, Bộ GD-ĐT chính thức đứng ra đưa học sinh đi thi trên cơ sở tuyển chọn học sinh từ năm địa phương: Hà Nội, TP.HCM, Huế, Lâm Đồng, Đà Nẵng. Đề tài “Xử lý nước mặn thành nước ngọt bằng kỹ thuật chân không và năng lượng mặt trời phục vụ sinh hoạt” của một nhóm gồm ba học sinh Trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam (Hà Nội) được đưa đi dự thi đã giành giải nhất trong lĩnh vực điện và cơ khí.
Đỗ Hoàng Hải, học sinh Trường THPT Việt Đức – Hà Nội, thành viên nhóm nghiên cứu chế tạo pin từ củ khoai tây với đề tài được giải ba hội thi khoa học, kỹ thuật cấp quốc gia năm 2012 – Ảnh: Bá Hải
Chiến thắng bất ngờ này là một cơ sở quan trọng để Bộ GD-ĐT quyết tâm ban hành quy chế thi khoa học, kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông ngay trong năm học 2012-2013 và sẽ được tổ chức hằng năm. Trao đổi với Tuổi Trẻ, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Vinh Hiển bày tỏ: “Việc tổ chức thêm sân chơi trí tuệ này nhằm góp phần thúc đẩy đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp dạy học, đổi mới cách đánh giá kết quả học tập, phát triển năng lực của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học”.
Video đang HOT
Nhiề u nhà quản lý giáo dục cũng hồ hởi với kỳ thi này. Ông Nguyễn Thiết Sơn – hiệu trưởng Trường THPT Kim Liên, Hà Nội – nhận xét kỳ thi sẽ đem lại những điểm tích cực nhằm phát huy khả năng sáng tạo của học sinh. Các em có cơ hội hoạt động nhóm, giao tiếp, ứng xử, hùng biện…
Cuộc thi cũng là cơ hội để thầy cô giáo, các nhà khoa học và học sinh có sự tương tác, hỗ trợ, trao đổi để cùng giải quyết các vấn đề khoa học. Điều này khiến các em học sinh tự tin, chủ động hơn trong việc nắm bắt kiến thức. “Giáo viên từ hoạt động này cũng có thể thay đổi cách dạy học, bản thân giáo viên cũng tự thấy phải năng động hơn, tìm tòi đổi mới cách thức dạy học cũng như hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học” – ông Sơn nhận xét.
Theo Bộ GD-ĐT, hiện đã có hơn 30 địa phương đăng ký dự thi. Dự kiến tháng 3/2013 sẽ tổ chức kỳ thi cấp quốc gia, đề tài được giải nhất toàn cuộc sẽ được mang sang Mỹ dự kỳ thi ISEF thường niên vào tháng 5/2013.
Đừng để cuộc thi mang tính “phong trào”
Tuy nhiên, theo nhiều nhà giáo, thời điểm này còn hơi sớm để cho rằng cuộc thi học sinh nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trở thành cuộc thi “đối trọng” với kỳ thi học sinh giỏi truyền thống hiện nay. Trước hết, điều kiện dạy – học nói chung ở các trường phổ thông hiện nay còn rất nhiều khó khăn nên các trường khó thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong học sinh cũng như trong việc tạo nguồn để tham gia thi thố.
“Cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm của các trường quá sơ sài, khó đáp ứng được yêu cầu của đề tài đòi hỏi thí nghiệm, khảo nghiệm thực tế. Kinh phí để mời nhà khoa học, để khuyến khích thầy trò tham gia, kinh phí hỗ trợ trực tiếp cho đề tài của các trường còn hạn hẹp, thậm chí nhiều nơi không có” – ông Nguyễn Thiết Sơn nói.
“Để có thể thực hiện được việc nghiên cứu khoa học trong học sinh phổ thông, rất cần sự hợp tác, hỗ trợ của các trường đại học, của các nhà khoa học, giảng viên, sinh viên đại học, nhưng thực tế các trường phổ thông chưa vươn tới được việc này” – ông Phạm Văn Hùng, giám đốc Sở GD-ĐT Thừa Thiên – Huế, cho biết.
“Thí sinh tham dự chỉ là một bộ phận nhỏ nhưng còn gặp vô vàn khó khăn, việc tạo nên sự lan tỏa cho học sinh đại trà là việc không dễ dàng, nếu muốn làm thực chất chứ không phải làm kiểu phong trào” – một giáo viên Trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam chia sẻ.
Bên cạnh đó, “Thế nào được coi là “ sáng tạo”? Có cách gì để kiểm soát được đề tài dự thi có phải là ý tưởng của thí sinh hay là vay mượn, nếu như cuộc thi bị biến tướng thành cuộc “chạy đua thành tích” như đã xảy ra với kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia?” là điều lo ngại của không ít thầy, cô giáo có tâm huyết.
Lãnh đạo Bộ GD-ĐT khẳng định: “Thí sinh phải chịu trách nhiệm mọi mặt của dự án nghiên cứu, kể cả việc mời người hướng dẫn, chuyên gia đến thực hiện các thí nghiệm, thiết kế, phân tích dữ liệu… Nếu phát hiện có hành vi sai trái, gian lận khoa học bao gồm sao chép, giả mạo, sử dụng sản phẩm của người khác sẽ bị xử lý nghiêm khắc”.
Tuy vậy, cuộc thi vẫn cần hướng dẫn chi tiết hơn nữa, từ khâu tiếp nhận hồ sơ đến chấm thi, xét giải…, đặc biệt là việc “không đưa kết quả giải thưởng vào bảng thành tích xét thi đua của Sở GD-ĐT các tỉnh, thành” để tránh cho cuộc thi bị biến tướng – một thầy giáo ở Hà Nội nhận xét.
“Để cuộc thi tác động trực tiếp trở lại hoạt động dạy học chính khóa trong nhà trường thì các nhà giáo dục còn phải bàn với nhau nhiều nữa. Nhiều vấn đề về dạy học trong nhà trường được đầu tư, nghiên cứu mãi còn chưa xong, mới phát động một vài cuộc thi thế này làm sao đã chuyển biến được?” – thầy Vũ Đức Thuật, phó hiệu trưởng Trường THPT Nguyễn Gia Thiều (Hà Nội), nói.
Theo Vĩnh Hà – Hồ Ngọc (Tuổi Trẻ)
Càng lên lớp cao, càng ít môn học
Theo xu hướng chung của các nước, các trường không cần phải dạy quá nhiều môn để tạo điều kiện cho học sinh phát huy tư duy, khả năng sáng tạo.
Tại cuộc hội thảo quốc tế diễn ra trong tuần qua về xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới sau năm 2015, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam - Bộ GD-ĐT - đề xuất việc dạy học tích hợp bởi đây là xu hướng tất yếu.
Thêm vào nhưng để bớt đi
Tiến sĩ Nguyễn Thị Hồng Vân, đại diện nhóm nghiên cứu, cho hay: "Tích hợp là một quan điểm cơ bản trong việc xây dựng chương trình và sách giáo khoa, tổ chức nội dung dạy học của nhiều nước, đặc biệt ở bậc tiểu học và THCS". Theo đề xuất của nhóm nghiên cứu, ở tiểu học, tích hợp trong bộ môn toán, tiếng Việt, đạo đức, tự nhiên và xã hội (các lớp 1, 2, 3) và lồng ghép các vấn đề như môi trường, biến đổi khí hậu, kỹ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản... vào các môn học và hoạt động giáo dục. Xây dựng 2 môn học mới ở lớp 4, 5, gồm khoa học và công nghệ (trên cơ sở môn khoa học và kỹ thuật trong chương trình hiện hành), tìm hiểu xã hội (trên cơ sở môn lịch sử và địa lý các lớp 4, 5 trong chương trình hiện hành và thêm một số vấn đề xã hội).
Bậc THCS thêm 2 môn học mới là khoa học tự nhiên (trên cơ sở môn vật lý, hóa học, sinh học trong chương trình hiện hành) và khoa học xã hội (trên cơ sở các môn lịch sử, địa lý trong chương trình hiện hành và một số vấn đề xã hội). Hai môn học này được xây dựng theo mô hình cơ bản đảm bảo tính logic hệ thống của các phân môn, nội dung chương trình các phân môn có sự hỗ trợ cho nhau và tránh trùng lắp, có những chủ đề liên kết giữa các phân môn... Học sinh bậc THPT cũng học theo hướng tích hợp và lồng ghép.
Về lộ trình triển khai, theo tính toán của nhóm nghiên cứu, tích cực chuẩn bị các môn học mới, cứ sau vài năm có thể thêm một số môn. Dự kiến tới năm 2025 về cơ bản có các môn tự chọn tương đương các nước.
Thông tin từ nhóm nghiên cứu cho hay, các môn học mới xây dựng trên quan điểm tích hợp như đề xuất đã tổ chức xin ý kiến của các chuyên gia, cán bộ quản lý và giáo viên ở Hà Nội, TP.HCM, TP.Cần Thơ và tỉnh Nam Định. Các ý kiến đều thống nhất phương án tích hợp này không gây ra sự xáo trộn về số lượng và cơ cấu giáo viên, không nhất thiết phải đào tạo lại đội ngũ giáo viên mà chỉ cần bồi dưỡng một số chuyên đề về phương pháp dạy; không đòi hỏi phải tăng cường quá nhiều về cơ sở vật chất và thiết bị dạy học.
Theo kế hoạch, sau năm 2015, số môn học của học sinh lớp 12 chỉ còn 7 môn bắt buộc và tự chọn so với hiện nay là 13 - Ảnh: Đào Ngọc Thạch
Giảm bắt buộc, tăng tự chọn
Nhóm nghiên cứu đề xuất phân bổ các môn học trong 3 năm THPT như sau: Lớp 10 là giai đoạn để học sinh bước đầu định hướng nghề nghiệp sau này, có 11 môn học bắt buộc, chương trình ở mức cơ bản; đồng thời học sinh sẽ chọn các môn/chủ đề có nội dung ứng dụng kiến thức môn học và thực tiễn hoặc nghề.
Các năm lớp 11, 12 là giai đoạn thực hiện phân hóa mạnh và hướng nghiệp cao. Số môn học sẽ không quá nhiều như hiện nay nhưng học sâu hơn. Nhóm nghiên cứu đề nghị có 4 môn bắt buộc là: ngữ văn, toán, ngoại ngữ 1 (từ môn ngoại ngữ 2 trở đi là môn tự chọn), giáo dục công dân. Đồng thời, học sinh sẽ phải chọn 3 môn trong danh mục các môn sau: vật lý, hóa học, sinh học, lịch sử, địa lý, tin học, môi trường, công nghệ, kinh doanh, nghề (liên quan đến các nghề ở địa phương)... và chọn thêm các chủ đề gắn với định hướng nghề nghiệp, ứng với các môn tự chọn và bắt buộc. Như vậy, học sinh sẽ học 7 môn (4 môn bắt buộc và 3 môn tự chọn) và một số chủ đề. Theo lý giải của nhóm nghiên cứu, giáo dục công dân là môn bắt buộc nhằm trang bị những yếu tố nền tảng về đạo đức, phẩm chất không thể thiếu đối với mỗi công dân tương lai.
Xét trên tổng thể cả 3 cấp học, số môn học bắt buộc giảm dần và các môn/hoạt động tự chọn tăng lên. Các trường sẽ tổ chức thí điểm dạy học tự chọn, có thể làm theo cách của một số nước theo hình thức "vết dầu loang". Trong vài năm đầu các trường có đầy đủ các điều kiện về giáo viên, khả năng quản lý sẽ đăng ký tham gia dạy học tự chọn. Sau đó, mô hình này sẽ mở rộng dần, sau khoảng 5 - 6 năm sẽ phủ hết tất cả trường THPT.
Theo thanh niên
Mối lo thật sự từ phong trào luyện chữ đẹp Luyện chữ đẹp khi đó không chỉ là phong trào - tự phát hoặc có chỉ đạo - mà đã do một triết lý - có gốc rễ rất sâu ở giới quản lý chi phối. Đây mới là mối lo thật sự" - độc giả Lãnh Nguyên nêu ý kiến khi tham gia diễn đàn "viết chữ đẹp: thế nào là đủ"?...