Kỹ năng cần biết khi viết đoạn văn nghị luận xã hội
Học sinh lưu ý không triển khai hệ thống ý nghị luận của tổng thể vấn đề khiến đoạn văn trở thành bài văn thu nhỏ.
Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết, giáo viên Ngữ Văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI chia sẻ các kỹ năng viết đoạn văn nghị luận xã hội dành cho sĩ tử sắp bước vào kỳ thi Tốt nghiệp THPT 2020. Theo Tiến sĩ Thu Tuyết, từ kỳ thi THPT Quốc gia 2017, yêu cầu viết bài văn nghị luận xã hội khoảng 600 từ đã thay thế bằng yêu cầu viết đoạn văn nghị luận xã hội khoảng 200 chữ. Đó là thay đổi lớn, kéo theo nhiều vấn đề về kiến thức, kỹ năng trong quá trình ôn luyện và làm bài thí sinh cần lưu ý.
Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết, giáo viên Ngữ Văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI
Đặc điểm của dạng đề viết đoạn văn Nghị luận xã hội
Để thấy được đặc điểm và yêu cầu của dạng bài viết đoạn văn nghị luận xã hội, trước hết học sinh quan sát lại các đề thi chính thức của những năm gần đây.
Đề thi THPT Quốc gia năm 2017: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu (“ Thiện, Ác và smartphone” – Đặng Hoàng Giang), anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống.
Đề thi THPT Quốc gia năm 2018: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu ( Đánh thức tiềm lực – Nguyễn Duy), anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về sứ mệnh đánh thức tiềm lực đất nước của mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện nay.
Đề thi THPT Quốc gia năm 2019: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu ( Trước biển – Vũ Quần Phương), anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về sức mạnh ý chí con người trong cuộc sống.
Đề tham khảo thi THPT Quốc gia lần 1/2020: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu (“ Đánh thức con người phi thường trong bạn” – Anthony Robbins), hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ của anh/chị về những hành động nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường.
Đề tham khảo thi Tốt nghiệp THPT lần 2/2020: Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu (“ Tất cả chỉ là chuyện nhỏ” – Richard Carlson), anh/chị hãy viết một đoạn văn khoảng 200 chữ về sự cần thiết phải tôn trọng quan điểm của người khác.
Quan sát năm đề trên, chúng ta sẽ rút ra nhận xét về những đặc điểm quan trọng của dạng đề viết đoạn văn nghị luận xã hội, cụ thể:
Từ cấu trúc ngôn từ quen thuộc trong các đề: “Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu…”, nội dung nghị luận có quan hệ hữu cơ với nội dung chính của ngữ liệu đọc hiểu. Đặc điểm này chỉ có từ kỳ thi năm 2017, khi đề bài yêu cầu viết đoạn văn nghị luận xã hội từ một nội dung nào đó trong ngữ liệu đọc hiểu, thay vì bài văn nghị luận xã hội độc lập.
Điều này mang đến thuận lợi cho học sinh trong quá trình làm bài khi các em có được những gợi ý quan trọng ngay từ việc suy nghĩ và trả lời các câu hỏi đọc hiểu trước đó. Tuy nhiên, các em cũng cần lưu ý tránh sự trùng lặp ý giữa câu hỏi đọc hiểu và nội dung đoạn văn nghị luận xã hội.
Câu lệnh trong đề luôn xác định rõ hai yêu cầu của đoạn văn, trước hết là một trong những yêu cầu về hình thức đoạn văn: viết đúng dung lượng theo yêu cầu đặt ra trong câu lệnh của đề bài; sau đó là yêu cầu về nội dung nghị luận, đó là một khía cạnh, một bình diện, một ý nhỏ trong vấn đề lớn. Quan sát 5 đề đã dẫn phía trên, hầu hết nội dung nghị luận đều hướng tới tư tưởng đạo lý – do vậy cần lưu ý thêm dạng đề nghị luận về một hiện tượng xã hội.
Ví dụ: hiện tượng bạo lực học đường/ hội chứng đám đông/ phong trào thiện nguyện trong xã hội thời hiện đại/ các trào lưu sử dụng mạng xã hội…
Những lưu ý về kỹ năng viết đoạn văn Nghị luận xã hội
Hình thức đoạn văn. Đoạn văn phải đảm bảo đúng dung lượng theo yêu cầu của đề bài, thông thường là 200 chữ (khoảng 20 tới 23 dòng), tránh viết quá dài hoặc quá ngắn. Đoạn văn có thể tùy ý lựa chọn các cấu trúc: song hành, móc xích, quy nạp, diễn dịch hay tổng phân hợp… nhưng phải đúng cấu trúc đoạn văn: Không xuống dòng giữa đoạn; đoạn văn bắt đầu bằng chữ cái viết hoa và lùi vào một chữ ở đầu dòng và kết thúc bằng dấu ngắt câu – có thể là dấu chấm, chấm than, ba chấm hoặc chấm hỏi tùy theo kiểu câu phù hợp với nội dung kết đoạn.
Lưu ý về yêu cầu quan trọng với nội dung đoạn văn. Để xác định đúng nội dung nghị luận, các em cần phân biệt bài văn nghị luận xã hội với đoạn văn nghị luận xã hội. Nếu bài văn nghị luận về một vấn đề (chủ đề – ý lớn) trong cuộc sống xã hội thì đoạn văn chỉ nghị luận trọn vẹn một khía cạnh của vấn đề (tiểu chủ đề – ý nhỏ). Điều các em cần lưu ý là tuyệt đối không triển khai hệ thống ý nghị luận của tổng thể vấn đề khiến đoạn văn trở thành bài văn thu nhỏ.
Tuy chỉ nghị luận về một khía cạnh, một bình diện nhỏ trong vấn đề lớn, để nội dung nghị luận trong đoạn văn mạch lạc, khúc chiết, bản thân bình diện (tiểu chủ đề) ấy cũng phải được triển khai thành hệ thống ý nhỏ hơn. Sau đây là một số gợi ý về việc triển khai hệ thống ý trong đoạn văn mà các em có thể tham khảo:
- Nếu đề yêu cầu luận về nguyên nhân của quan niệm/ hiện tượng…, có thể triển khai theo các hệ thống ý sau: Thứ nhất là nguyên nhân chủ quan/ nguyên nhân khách quan; thứ hai là các nguyên nhân từ gia đình/ nhà trường/ xã hội/ bản thân; thứ ba có thể nguyên nhân từ bản thân mỗi cá nhân với nhận thức, tâm lý, công việc, hoàn cảnh sống…
Video đang HOT
- Nếu đề yêu cầu luận về sự chi phối của một cách sống/ cách nghĩ/ hiện tượng xã hội… (tùy theo tính tích cực hay tiêu cực mà câu lệnh có thể dùng từ “ý nghĩa” hay “hậu quả”)… (Đề thi THPT Quốc gia năm 2017 – “ý nghĩa” sự thấu cảm, đề thi THPT Quốc gia năm 2019 – “sức mạnh” của ý chí, hai đề tham khảo năm 2020 – lần một thiếu từ “ý nghĩa” hành động nhỏ làm nên người anh hùng giữa đời thường. Lần hai “sự cần thiết” phải tôn trọng quan điểm của người khác.)…, các em có thể triển khai theo các hệ thống ý sau: Thứ nhất là sự chi phối với cá nhân/ cộng đồng xã hội; thứ hai là sự chi phối với tâm lý, tính cách, thân phận con người…; thứ ba là sự chi phối theo thời gian hiện tại và tương lai…
- Nếu đề yêu cầu luận về giải pháp thực hiện một cách sống, cách nghĩ… các em có thể triển khai theo các hệ thống ý sau: giải pháp từ cá nhân tới cộng đồng; giải pháp xuất phát từ nhận thức đến hành động; giải pháp trước mắt và lâu dài…
- Nếu đề yêu cầu trình bày nhiệm vụ/ sứ mệnh/ bài học cho bản thân từ nội dung vấn đề của tư tưởng đạo lý hoặc hiện tượng xã hội… có thể triển khai theo hai ý cơ bản sau: Ý thức – hành động (Ví dụ đáp án đề Trung học phổ thông Quốc gia năm 2018).
Tóm lại, để viết một đoạn văn nghị luận xã hội đúng và hay, trước hết, các em cần xác định chính xác nội dung nghị luận, đó là một khía cạnh của vấn đề trong phần Đọc hiểu, cũng là vấn đề được thể hiện ngay trong cụm từ ngữ phía sau bình diện nghị luận theo yêu cầu, ví dụ: “… viết một đoạn văn khoảng 200 chữ trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của sự thấu cảm trong cuộc sống” (đề năm 2017) thì “sự thấu cảm” là vấn đề, còn “ý nghĩa” là khía cạnh cần nghị luận trong đoạn văn đó. Tiếp theo, phải nghị luận theo hệ thống ý nhỏ hơn rành mạch, khúc chiết; sử dụng văn phong giản dị, trong sáng, cách lập luận chặt chẽ và thuyết phục.
Tiến sĩ Văn học hướng dẫn sĩ tử cách làm bài đọc hiểu trong kỳ thi tốt nghiệp
Để làm tốt kiểu bài đọc hiểu, học sinh cần xác định chính xác từng loại câu hỏi theo mức độ để tránh trả lời thừa hoặc thiếu.
Chia sẻ với Giáo dục Việt Nam, Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết - giáo viên giảng dạy Ngữ Văn tại Hệ thống Giáo dục HOCMAI cho rằng, việc nắm bắt chính xác đặc điểm dạng bài đọc hiểu không chỉ giúp học sinh thực hiện tốt nhất yêu cầu của các câu hỏi đọc hiểu, đạt điểm số cao nhất mà còn giúp các em luyện kĩ năng nghe hiểu, đọc hiểu cho mọi hoạt động thực tiễn.
Dưới đây là những chia sẻ của Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết về kỹ năng nhận biết và xử lí các dạng bài đọc hiểu trước thềm kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2020.
Đặc điểm nhận biết dạng bài đọc hiểu
Sự xuất hiện của dạng bài đọc hiểu trong đề thi từ năm 2014 khiến dạng bài này trở nên quan trọng trong quá trình dạy học và ôn luyện ở các trường phổ thông.
Kiểu bài tập này thực sự đáp ứng yêu cầu thực tế của các hoạt động học tập, làm việc, hợp tác và giao tiếp trong cuộc sống khi khả năng đọc - hiểu, nghe - hiểu, xem - hiểu... từ văn bản viết tới văn bản nói ngày càng có nhiều độ chênh sai.
Sau nhiều thay đổi, chỉnh sửa, mô hình bài đọc hiểu trong đề thi môn Ngữ văn tới nay đã có những thống nhất tương đối.
Trong cấu trúc bài đọc hiểu luôn có hai phần, phần thứ nhất là ngữ liệu đọc hiểu.
Sau nhiều thay đổi, tới nay ngữ liệu đọc hiểu là một văn bản ở ngoài chương trình sách giáo khoa. Đó là một văn bản trọn vẹn hoặc trích đoạn và có thể thuộc bất kì một phong cách ngôn ngữ nào, từ báo chí, chính luận, nghệ thuật, khoa học, sinh hoạt cho đến hành chính công vụ. Ngữ liệu ấy có thể là một đoạn văn xuôi khoảng 200 tới 300 chữ hoặc một đoạn thơ khoảng 15 tới 20 câu...
Ngữ liệu đọc hiểu thường bao gồm cả trích đoạn và xuất xứ văn bản, phần xuất xứ này cũng giữ vai trò quan trọng trong việc gợi ý cho học sinh có thể hiểu hơn về phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt hoặc chủ đề văn bản.
Tiến sĩ Trịnh Thu Tuyết (ảnh: NVCC)
Cụ thể, học sinh có thể quan sát đặc điểm dạng bài đọc hiểu qua một số đề chính thức và đề tham khảo của Bộ Giáo dục và Đào tạo ra trong những năm gần đây:
Đề thi trung học phổ thông quốc gia 2018: Đoạn thơ Đánh thức tiềm lực ( tác giả Nguyễn Duy):
1. Đoạn thơ được viết theo thể thơ nào?
2.Trong đoạn trích, tác giả nhắc tới những yếu tố nào thuộc về tiềm lực tự nhiên của đất nước?
3. Nêu hiệu quả của việc sử dụng câu hỏi tu từ trong đoạn trích?
4.Theo anh/ chị, quan điểm của tác giả trong hai dòng thơ " Ta ca hát quá nhiều về tiềm lực- tiềm lực còn ngủ yên" có còn phù hợp với thực tiễn ngày nay không? Vì sao?
Đề thi trung học phổ thông quốc gia 2019: Đoạn thơ Trước biển ( tác giả Vũ Quần Phương):
1. Đoạn thơ được viết theo thể thơ nào?
2. Anh/ Chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào: Vầng trán mặn giọt mồ hôi cay đắng/ Bao kiếp vùi trong đáy lạnh mù tăm?
3. Hãy cho biết hiệu quả của phép điệp trong các dòng thơ sau: C ái hào hiệp ngang tàng của gió - Cái kiên nhẫn nghìn đời sóng vỗ - Cái nghiêm trang của đá đứng chen trời - Cái giản đơn sâu sắc như đời?
4. Hành trình theo đuổi khát vọng của con người được thể hiện trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
Đề minh họa lần 1, năm 2020: Đoạn trích "Đánh thức con người phi thường trong bạn":
1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
2. Trong đoạn trích, tác giả cho rằng anh hùng là người có thái độ nhứ thế nào trước khó khăn nghịch cảnh?
3. Anh, chị hiểu như thế nào về câu: Anh hùng không phải mẫu người hoàn hảo vì chẳng có ai hoàn hảo?
4. Anh, chị có đồng tình với quan niệm: Chúng ta đều mắc sai lầm nhưng điều đó không phủ nhận những cống hiến của chúng ta trong cuộc đời? Vì sao?
Đề tham khảo Tốt nghiệp trung học phổ thông 2020: Đoạn trích "Tất cả chỉ là chuyện nhỏ":
1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn trích.
2. Theo đoạn trích, người có thói quen hay phản đối người khác thường nhận được phản ứng như thế nào?
3. Dựa vào đoạn trích, anh, chị hãy cho biết thế nào là "thể hiện quan điểm trong sự hòa nhã"?
4. Lời khuyên " Hãy bỏ thói quen luôn cho rằng mình đúng" trong đoạn trích có ý nghĩa gì với anh, chị?
Quan sát hệ thống đề trên, cô Tuyết cho rằng, có thể thấy sau ngữ liệu đọc hiểu là 4 câu hỏi được phân bổ theo các mức độ nhận thức từ thấp tới cao: nhận biết, thông hiểu, vận dụng/ vận dụng cao.
Với từng mức độ câu hỏi đọc hiểu, học sinh cần biết phân biệt kiểu dạng, tín hiệu nhận biết và yêu cầu trả lời phù hợp.
Kĩ năng xác định và xử lí các mức độ câu hỏi đọc hiểu
Thứ nhất, với câu hỏi nhận biết, kiểu câu hỏi này thường yêu cầu xác định một đặc điểm của hình thức văn bản như: thể thơ, phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt...( thường có cụm từ " Xác định... / Chỉ ra... phong cách ngôn ngữ, phương thức biểu đạt chính/ cơ bản...).
Câu hỏi nhận biết còn có thể yêu cầu tìm những chi tiết thuộc về nội dung văn bản phù hợp với nội dung định hướng trong câu lệnh (thường có cụm từ cho thấy dấu hiệu nhận biết: " Theo tác giả/ Theo đoạn trích/ trong đoạn trích/ dựa vào đoạn trích...").
Với câu hỏi nhận biết, học sinh có thể sử dụng kiến thức tiếng Việt, kiến thức văn học... để trả lời những yêu cầu xác định một đặc điểm của hình thức văn bản hoặc đọc văn bản và tìm nội dung phù hợp với yêu cầu câu hỏi.
Ví dụ: Theo đoạn trích, người có thói quen hay phản đối người khác thường nhận được phản ứng như thế nào? (Đề tham khảo Tốt nghiệp trung học phổ thông 2020). Dạng câu hỏi này, học sinh không cần phân tích, diễn giải.
Thứ hai, với câu hỏi thông hiểu, câu hỏi này thường yêu cầu giải thích cách hiểu nội dung một khái niệm/ nhận định/câu văn/ câu thơ...trong văn bản.
Ví dụ: Anh/ Chị hiểu nội dung các dòng thơ sau như thế nào " Vầng trán mặn giọt mồ hôi cay đắng/ Bao kiếp vùi trong đáy lạnh mù tăm" ? - Đề thi Trung học phổ thông Quốc gia 2019.
Với câu hỏi này, học sinh cần giải thích nghĩa đen/ nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ, biểu tượng (nếu có) của khái niệm/ hay quan niệm trong nhận định
Thứ ba là câu hỏi vận dụng, câu hỏi này thường yêu cầu xác định và phân tích giá trị của biện pháp tu từ / tác dụng của việc sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt, sử dụng từ ngữ ... trong văn bản.trong câu/ đoạn văn bản.
Ví dụ: Hãy cho biết hiệu quả của phép điệp trong các dòng thơ sau: Cái hào hiệp ngang tàng của gió - Cái kiên nhẫn nghìn đời sóng vỗ - Cái nghiêm trang của đá đứng chen trời - Cái giản đơn sâu sắc như đời" ? - Đề thi Trung học phổ thông Quốc gia 2019.
Kiểu câu hỏi này, học sinh cần vận dụng kiến thức tiếng Việt, kiến thức tu từ học, kiến thức văn học, kiến thức cuộc sống... để xác định đúng và phân tích giá trị biểu đạt ( diễn đạt nội dung gì?) và biểu cảm ( đưa tới cảm xúc gì?).
Cuối cùng là dạng câu hỏi vận dụng cao, câu hỏi này thường yêu cầu thể hiện cảm xúc, suy nghĩ, thái độ và nhất là quan điểm cá nhân trước một nhận định/ thông điệp/ vấn đề đặt ra trong văn bản đọc hiểu.
Có thể có những dạng câu hỏi cụ thể như sau:
Theo anh/ chị, quan điểm của tác giả trong hai dòng thơ "Ta ca hát quá nhiều về tiềm lực- tiềm lực còn ngủ yên" có còn phù hợp với thực tiễn ngày nay không? Vì sao? (Đề thi Trung học phổ thông Quốc gia 2018)
Hành trình theo đuổi khát vọng của con người được thể hiện trong đoạn trích gợi cho anh/chị suy nghĩ gì? (Đề thi Trung học phổ thông Quốc gia 2019)
Anh, chị có đồng tình với quan niệm: Chúng ta đều mắc sai lầm nhưng điều đó không phủ nhận những cống hiến của chúng ta trong cuộc đời? Vì sao? (Đề tham khảo lần 1/2020)
Lời khuyên "Hãy bỏ thói quen luôn cho rằng mình đúng" trong đoạn trích có ý nghĩa gì với anh, chị? (Đề tham khảo lần 2/2020).
Với dạng câu hỏi vận dụng cao, học sinh cần trả lời ngắn gọn, chân thành, trung thực những suy nghĩ, xúc cảm cá nhân, tránh khuôn mẫu, sáo rỗng, hô khẩu hiệu...
Mức độ vận dụng cao này hay xuất hiện dạng câu hỏi "Anh/chị có đồng tình...?/ Vì sao", yêu cầu này đòi hỏi học sinh cần xác định đúng suy nghĩ, nhận thức của mình để luận bàn cho thấu đáo, chặt chẽ.
Hoàn toàn có thể xuất hiện nhiều phương án: đồng tình/ không đồng tình/ đồng tình nhưng có giới hạn, điều kiện, ngoại lệ.... Phần quan trọng nhất là trả lời câu hỏi "Vì sao?" đòi hỏi thể hiện quan niệm cá nhân với lập luận chặt chẽ, trung thực, thuyết phục.
Tóm lại, để làm tốt kiểu bài đọc hiểu, học sinh cần xác định chính xác từng loại câu hỏi theo mức độ nhận biết, thông hiểu, vận dụng/ vận dụng cao để tránh trả lời thừa hoặc thiếu.
Ví dụ, với câu hỏi nhận biết, chỉ xác định đúng đặc điểm hình thức văn bản hoặc chi tiết nội dung văn bản, không phân tích diễn giải; với câu hỏi thông hiểu, cần giải thích bản thân khái niệm, nhận định...;
Câu hỏi vận dụng, chú ý vận dụng những kiến thức phù hợp để trả lời đúng và đủ yêu cầu của câu hỏi; với câu hỏi vận dụng cao, đặc biệt lưu ý thể hiện xúc cảm, suy nghĩ, quan điểm cá nhân.
Nội dung cần viết đúng, trúng, ngắn gọn và mạch lạc, tránh dài dòng, lan man, rối ý. Nếu câu hỏi có từ hai ý trở lên, có thể tách riêng từng ý với hình thức gạch đầu dòng; còn nếu câu hỏi chỉ có một ý, nhất là dạng câu hỏi vận dụng cao, nên viết liền đoạn, chặt chẽ và hàm súc.
Tranh cãi đề thi chuyên Văn lớp 10 về nhan sắc và đức hạnh của người phụ nữ: Giáo viên và học sinh nói gì? Sáng 13/7, thí sinh dự thi vào trường THPT chuyên Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã thi môn Ngữ văn. Tuy nhiên, một câu hỏi trong phần thi Nghị luận văn học đã gây nhiều tranh cãi. Cụ thể đề như sau: "Nhà thơ Xuân Quỳnh đã viết: "Thơ đối với cuộc sống ví như...