Kinh nghiệm học tiếng Anh từ thực tập sinh đầu tiên của NASA
Từ nam sinh không hiểu gì tiếng Anh tới thực tập sinh đầu tiên của Việt Nam ở Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA), Trương Ngọc đã trải qua giai đoạn thực sự khó khăn.
Bước vào năm thứ tư ngành Vũ trụ và Hàng không, ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội (USTH) cũng là lúc Trương Ngọc nhận được suất thực tập 3 tháng tại trụ sở của NASA ở Sillicon Valley, Mỹ.
Hiện tại, Ngọc sống giữa đất Mỹ và hàng ngày làm việc cùng các nhà khoa học nước ngoài bằng tiếng Anh, nhưng ít ai biết cách đây 4 năm – khi còn học phổ thông, tiếng Anh của em rất tệ – như lời Ngọc thú nhận.
ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội (hay còn gọi là ĐH Việt Pháp) có quy trình tuyển sinh hoàn toàn khác với các trường công lập ở Việt Nam. Để dự tuyển vào trường Ngọc phải viết bài luận và phỏng vấn bằng tiếng Anh.
“Tiếng Anh của em tệ đến mức mở web của trường ra không hiểu gì. Khi phỏng vấn, các thầy nói em nghe cũng chẳng hiểu gì. Cuộc phỏng vấn đó đúng là một thảm họa. Lúc đầu, em dùng đủ mọi ngôn ngữ cơ thể, sau đó may mắn có một cô phiên dịch giúp”.
Ngọc kể lại hôm đó đúng là một ngày may mắn với em. Khi em mô tả lại thí nghiệm đo gia tốc trọng lực của Trái Đất, em lấy bút dạ vẽ lên bảng, nhưng thực ra các thầy cũng chẳng hiểu gì.
“Cô phiên dịch nói thực ra buổi hôm đó các thầy chẳng hiểu gì đâu. Nhưng có một “key answer” là thầy hiệu trưởng hỏi em “thế tóm lại kết quả có ra 9,8 không?”. 9,8 là giá trị tiêu chuẩn mà các nhà khoa học đo được. Tất nhiên, sinh viên đồ đạc dởm, đo thế nào được 9,8.
Em trả lời “không, em chỉ đo được 8 phẩy mấy thôi”, thầy nói “ok, you pass”. Thực ra, thầy chỉ muốn kiểm tra xem mình có làm thí nghiệm thật không”.
Ngọc chia sẻ khi quyết định học “science” cũng là lúc em nghĩ mình cần phải học tiếng Anh. Động lực của em xuất phát từ khoa học. Tài liệu tiếng Việt cũng rất nhiều và tốt nhưng không thỏa mãn hết đam mê, câu hỏi của chàng trai yêu Vật lý và Vũ trụ.
“Nếu bây giờ mình có thể tự đọc được tiếng Anh nghĩa là mình có thể khám phá một thế giới khác, không phải phụ thuộc ai dịch. Đó là động lực đầu tiên. Động lực thứ hai là em nghĩ những người làm khoa học phải trao đổi với nhau rất nhiều. Mình muốn làm nhà khoa học thì phải có khả năng trao đổi”.
Trương Ngọc – sinh viên năm thứ 4 ngành Vũ trụ và Hàng không, ĐH Khoa học và Công nghệ Hà Nội. Ngọc chụp tại mô hình nhà ga vũ trụ quốc tế. Ảnh: NVCC.
Video đang HOT
Quá trình học tiếng Anh của Ngọc cũng đòi hỏi nhiều sự kiên trì. “Ban đầu, em mua một cuốn luyện nghe. Em nghe không hiểu gì, sau đó vừa nghe vừa nhìn phần “transcript”, nghe đi nghe lại, rồi đọc theo. Dần dần, em bớt nhìn đi. Quan trọng không chỉ là nghe được, mà học được cách sử dụng từ trong ngữ cảnh. Em nghe hết level này đến level khác. Nghe hết “advanced” rồi nghe đến IELTS”.
Mỗi ngày em dành khoảng 3 tiếng cho tiếng Anh, chia nhỏ ra nhiều lần, làm nó trở thành một thói quen hằng ngày giống như tập thể dục. Em cảm thấy rất sung sướng khi tự đọc được tài liệu, tự hiểu được những gì họ nói. Ngọc cho rằng đôi khi mình phải thích và có động lực thì việc học tập sẽ hiệu quả hơn, giống như em lấy mục tiêu làm khoa học để buộc mình phải học tiếng Anh.
Ngọc cho biết em chủ yếu tự học và có tham gia 2 khóa IELTS. Việc học ở trường hoàn toàn bằng tiếng Anh với những giảng viên người nước ngoài cũng đóng góp một phần không nhỏ trong việc giúp em làm quen và dần thích nghi với môi trường nghe nói tiếng Anh.
“Bây giờ, việc học tập và nghiên cứu của em dùng tiếng Anh nhiều hơn tiếng Việt. Ở trường, chương trình học của bọn em bằng tiếng Anh, thầy giảng tiếng Anh, tài liệu tiếng Anh. Bây giờ, em sử dụng tiếng Anh thoải mái trong các hội nghị lớn mà không bị choáng ngợp. Mục tiêu của em là nói được tiếng Anh như người bản ngữ”.
Ngọc nói bây giờ còn trẻ, phải tận dụng thời gian, đặc biệt là trước những cơ hội học tập rất rộng mở như hiện nay. “Em thấy các em cấp 3 vẫn hay kêu không biết học gì, hay ở Việt Nam thiếu tài liệu. Ngược lại, tài liệu học tập trên Internet bây giờ rất nhiều. Bạn có thể học từ các giáo sư nước ngoài, các khóa học online của các trường hàng đầu thế giới như Harvard, Stanford…”.
Được biết, cơ hội trở thành thực tập sinh ở NASA của Ngọc cũng là nhờ khả năng tự tìm kiếm cơ hội, học hỏi và kết nối của em với một giáo sư của NASA khi ông sang Việt Nam tham dự chương trình “Gặp gỡ Việt Nam” của GS Trần Thanh Vân vào tháng 7 năm ngoái.
Chính vị giáo sư này là người đã nhận em sang phòng thí nghiệm của ông để nghiên cứu về vấn đề mà cả hai cùng quan tâm. Ông cũng là người kêu gọi ngân sách cũng như bỏ tiền túi để chi trả cho 3 tháng thực tập tại NASA của Ngọc.
Theo Nguyễn Thảo / VietNamNet
Nhiều kiểu dạy và học mới mẻ
Nhiều thầy cô tại TP.HCM luôn trăn trở tìm những cách dạy mới mẻ, thu hút học sinh trong điều kiện chương trình học còn ít thực tế, nhiều lý thuyết.
Dự án học văn "Tôi yêu tiếng nước tôi" của cô Trần Thị Quỳnh Anh - giáo viên (GV) trường THPT Trưng Vương, quận 1, TP.HCM - ra đời với lý do mong muốn học sinh (HS) sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn; khơi gợi lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc qua tiếng nói của dân tộc mình; ý thức được việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
Kéo học sinh... ra ngoài học
"Tôi yêu tiếng nước tôi" của cô Quỳnh Anh cũng là dự án đoạt giải nhất tại chung kết hội thi GV sáng tạo trên nền tảng công nghệ thông tin cấp quốc gia tổ chức vừa qua ở Hà Nội. Để có được thành quả sáng tạo như thế là cả quá trình mày mò tự đổi mới phương pháp giảng dạy, thuyết phục HS và phụ huynh của những GV luôn trăn trở vì HS.
Học sinh của cô giáo Phương Uyên trong giờ học thực tế.
Cô Quỳnh Anh cho biết khi ý tưởng dự án hình thành, cô bắt tay vào việc khảo sát HS mình đang dạy xem mỗi em có năng khiếu hay phù hợp với lĩnh vực nào.
Theo cô Quỳnh Anh, việc lạm dụng ngôn ngữ chat, hiện tượng song ngữ, viết tiếng Việt không đúng chuẩn đang là một vấn đề đáng báo động. Dự án của cô được kỳ vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc đưa tiếng Việt trở về với vẻ đẹp vốn có.
Dự án dạy học còn sử dụng các kiến thức tích hợp, liên môn với môn giáo dục công dân. Bài học giúp giáo dục thêm cho HS về lòng yêu nước qua các khái niệm, biểu hiện, trách nhiệm với đất nước bằng những việc làm nhỏ nhất.
"Việc HS ý thức, tự hào về tiếng nói dân tộc, có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cũng chính là yêu nước, thể hiện trách nhiệm của một công dân với đất nước" - cô Quỳnh Anh bày tỏ.
Trong khi đó, chia sẻ về dự án "Help me! - Join us for the Green Generation", cô Trần Thị Phương Uyên - GV tiếng Anh trường THCS Đồng Khởi, quận 1 - cho biết: "Khi tôi hỏi "các con biết học theo dự án là thế nào không?", HS trả lời không.
Tôi lại hỏi tiếp "thế có thích học không?", HS đều trả lời có. Giờ học tiếng Anh mà HS không giao tiếp, cứ ngồi im rất thụ động. Muốn HS của mình được nói tiếng Anh nhiều hơn, không còn cách nào khác là kéo các em... ra ngoài học".
Theo cô Phương Uyên, dự án dạy học này được chia thành nhiều nhóm, như nhóm họa sĩ thiết kế logo quảng bá, nhóm tình nguyện viên xã hội làm sản phẩm tái chế để bán lấy kinh phí giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn xung quanh, nhóm tình nguyện viên môi trường tuyên truyền và khảo sát ý kiến người dân về tình trạng môi trường hiện nay.
"Khi đưa HS ra công viên để học, tôi yêu cầu các em chủ động tìm người nước ngoài để giao tiếp. Khi đó, tôi mới phát hiện HS của mình thực sự rất giỏi và năng động, tự tin" - cô Phương Uyên kể.
Trưởng thành, mạnh dạn hơn
Dự án "Con đã lớn" của cô giáo Trương Hồ Trâm Anh - trường Tiểu học Lạc Long Quân, quận 11 - lại có cách triển khai rất thiết thực. Cô Trâm Anh dạy môn kỹ thuật lớp 5, trong đó có chương trình tự phục vụ. Môn kỹ thuật thì phải có thực hành, không thể dạy "chay" được.
Từ trăn trở ấy, cộng thêm mong muốn làm được điều gì đó thiết thực để tăng cường kỹ năng sống cho HS, cô Trâm Anh liền triển khai "Con đã lớn".
Dự án này tích hợp các môn kỹ thuật, đạo đức, tích hợp kỹ năng sống và hoạt động ngoài giờ lên lớp, được thực hiện trong vòng 2 tháng. Theo cô Trâm Anh, HS ở TP.HCM có thuận lợi là được gia đình cưng chiều, chăm sóc.
Nhưng cũng chính điều này khiến nhiều em quen tính ỷ lại dù có thể tự làm được một số việc. Từ thực tế đó, cô Trâm Anh tiến hành phát đơn cho phụ huynh và HS đăng ký tham gia dự án.
Khi "Con đã lớn" lan tỏa, nhiều HS ở khối khác, trường khác cũng đăng ký tham gia. Qua đó, có HS bộc lộ năng khiếu trang trí món ăn rất đẹp. Nhiều phụ huynh ban đầu sợ con không làm được nhưng đến khi thấy trẻ tập tành và làm quen, cả gia đình đã cùng tham gia việc nhà khiến không khí rất vui vẻ.
Điều được nhất của dự án là các em trưởng thành hơn, mạnh dạn hơn, biết ý thức và san sẻ việc nhà với cha mẹ tùy theo sức của mình.
Lúc triển khai các dự án, vẫn có những khó khăn như HS không thích, không tự giác; phụ huynh lo lắng giờ học của con bị bớt xén. Tuy nhiên, khi được trải nghiệm, điều dễ nhận thấy nhất là HS đã có những thay đổi tích cực.
"Tôi không theo dõi thường xuyên nhưng để ý thỉnh thoảng có những HS nhắc nhở bạn mình khi bạn này nói tiếng Việt không chuẩn. Đó là hiệu quả thiết thực, giúp tôi vững tâm để tiếp tục theo đuổi dự án của mình" - cô Quỳnh Anh thổ lộ.
Giúp HS tích lũy kỹ năng
"Dạy học theo dự án" là khóa học do Trung tâm Thông tin và Chương trình giáo dục - Sở Giáo dục và Đào tạo TP.HCM tổ chức, triển khai tập huấn cho tất cả GV đang công tác trong ngành từ tháng 1.
"Dạy học theo dự án" nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của HS, ứng dụng triệt để công nghệ thông tin vào phương pháp dạy học; tích hợp được nhiều kỹ năng, nhiều kiến thức liên quan trong bài học, chương trình học
Theo Đặng Trinh/Người Lao Động
Học tiếng Anh để làm gì? PGS.TS Lê Văn Canh (Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội) đặt câu hỏi tại hội thảo tổ chức gần đây ở Hà Nội và cho rằng, cả xã hội đầu tư nhưng kết quả không như mong đợi. "Nhu cầu học tiếng Anh ở Việt Nam cũng như tại nhiều quốc gia khác không chỉ đến từ đòi...