Không nên ‘dàn đều’ việc mua sách giáo khoa cho học trò mượn
Chủ trương xây dựng thư viện sách giáo khoa dùng chung được nhiều trường học ở vùng khó khăn áp dụng.
Giáo viên Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học & THCS Đinh Thanh Kháng bao bọc sách giáo khoa trước khi cho học trò mượn sử dụng trong năm học. Đây là cách làm để tăng “tuổi thọ” cho sách, có thể tái sử dụng nhiều năm.
Số sách phải bổ sung mới hàng năm khoảng từ 5 – 10%. Hệ số sử dụng lại sách giáo khoa khoảng từ 2 – 3 năm học, tùy theo mức độ bảo quản của học sinh và nhà trường.
Photocopy sách bài tập
Hai năm nay, xã Trà Mai (huyện Nam Trà My, Quảng Nam) đã hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới. Vì vậy, học sinh Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS Trà Mai không còn được hưởng phụ cấp chi phí mua sắm dụng cụ học tập theo Nghị định 81 của Chính phủ nữa.
Thầy Nguyễn Khắc Điệp, Hiệu trưởng nhà trường, cho biết: “Từ nguồn ngân sách của huyện, nhà trường được trang bị sách giáo khoa Chương trình giáo dục phổ thông mới một lần để nhập vào thư viện. Đầu năm học, học sinh sẽ mượn sách giáo khoa để sử dụng trong một năm học. Với sách bài tập, nhà trường photocopy để học sinh có thể viết vào, sách gốc thì giữ lại để ở thư viện”.
Để có thể tái sử dụng sách giáo khoa trong nhiều năm, Trường Phổ thông Dân tộc Nội trú THCS Trà Mai có quy định nếu cuối năm, học sinh nào làm mất sách, rách trang… phải đền cho thư viện. “Tuy nhiên, quy định này nhằm hạn chế số lượng sách giáo khoa bị hư hỏng, rách nát sau một năm sử dụng chứ cũng chưa áp dụng với bất kỳ một trường hợp nào. Hàng năm, nhà trường phải mua bổ sung từ 5 – 10% số bản sách của thư viện” – thầy Điệp thông tin.
Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học & THCS Đinh Thanh Kháng (huyện Sơn Tây, Quảng Ngãi) vừa trích từ nguồn kinh phí tăng cường cơ sở vật chất gần 80 triệu đồng để mua sách giáo khoa sử dụng cho năm học 2022 – 2023. Trong số này, chi phí mua sách giáo khoa cho học sinh khối 3 và 7 là 45 triệu đồng. Số tiền còn lại, nhà trường mua sách giáo khoa bổ sung cho các khối lớp khác để thay thế cuốn không còn sử dụng được hoặc bị mất.
Thầy Nguyễn Khắc Điệp tính toán, mỗi bộ sách sẽ dùng được khoảng 3 năm. Trong khi đó, ngân sách của huyện chỉ mua sách giáo khoa để trang cấp phục vụ cho Chương trình GDPT 2018 một lần. Vì vậy, những năm tới, nhà trường chưa biết lấy nguồn kinh phí từ đâu để mua sách giáo khoa đưa vào thư viện cho học sinh mượn.
“Chúng tôi cũng nghĩ đến phương án vận động phụ huynh mua sách giáo khoa cho học sinh sử dụng. Tuy nhiên, với điều kiện kinh tế – xã hội của địa phương cũng như mức thu nhập người dân thì phần đông phụ huynh khó mà trang bị được sách cho học sinh”, thầy Điệp chia sẻ.
Video đang HOT
Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học & THCS Trà Nam (Nam Trà My, Quảng Nam) tiếp nhận sách giáo khoa từ nguồn ủng hộ của các nhà hảo tâm.
Không nên “dàn đều”
Trước năm học mới khoảng gần 1 tháng, thông qua kênh giáo viên chủ nhiệm, Trường THPT Đức Phổ 1 (thị xã Đức Phổ, Quảng Ngãi) thông báo rộng rãi đến học sinh của cả 3 khối lớp về chính sách hỗ trợ sách giáo khoa của một số đơn vị, cá nhân.
Theo đó, đối với trẻ thuộc diện gia đình khó khăn, sẽ được tặng sách giáo khoa hoặc hỗ trợ một phần chi phí mua sách, tùy theo từng đơn vị liên kết với nhà trường. Tuy nhiên, theo thầy Hiệu trưởng Thạch Cảnh Bê, không có học sinh nào đăng ký với giáo viên chủ nhiệm để được hưởng chương trình này.
“Chi để mua sách giáo khoa thì các khoản sửa chữa nhỏ hoặc mua sắm mới một số đồ dùng, thiết bị… sẽ phải eo hẹp lại. Nhưng các trường ở miền núi đều phải tính toán như thế cả”, thầy Minh Anh khẳng định.
Trong khi đó, thầy Nguyễn Minh Anh – Hiệu trưởng Trường Phổ thông Dân tộc Bán trú Tiểu học & THCS Đinh Thanh Kháng – thì khẳng định, với điều kiện đặc thù của học sinh đồng bào dân tộc, rất khó có thể huy động để phụ huynh mua sắm sách giáo khoa cho trẻ. Vì vậy, nhà trường chỉ có thể sử dụng kinh phí mua sách giáo khoa để nhập vào thư viện cho học sinh mượn để học từ nguồn tăng cường cơ sở vật chất.
Ông Nguyễn Ngọc Thái – Giám đốc Sở GD&ĐT Quảng Ngãi – cho hay: “Lâu nay, các trường học, kể cả vùng thuận lợi hay khó khăn, đều mua sách giáo khoa, sách giáo viên và sách tham khảo để phục vụ cho giáo viên và học sinh mượn. Tuy nhiên, trừ các trường ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thì gần như số học sinh có nhu cầu mượn sách giáo khoa để học là rất ít, nếu không muốn nói là không có”.
Vì vậy, theo ông Thái, việc dùng ngân sách để mua sách giáo khoa trang bị cho các thư viện nhằm phục vụ cho 70% học sinh mượn để sử dụng cần phải cân nhắc đến điều kiện kinh tế – xã hội của từng địa phương. Cũng cần phải khảo sát nhu cầu của học sinh về việc mượn sách, tránh lãng phí trong mua sắm.
Ông Thái cũng băn khoăn ngân sách để mua sách giáo khoa đưa vào thư viện các trường học sẽ được trích từ ngân sách của Trung ương hay địa phương? Nếu là từ ngân sách của địa phương là bài toán khó, bởi tăng thêm chi phí đầu tư khi nguồn ngân sách để mua sắm thiết bị, đồ dùng dạy học cho Chương trình GDPT 2018 cũng là con số đáng kể.
Những người đứng đầu các trường học như thầy Điệp, thầy Minh Anh đều phấn khởi trước thông tin Bộ GD&ĐT đề xuất Chính phủ phương án trích từ ngân sách để mua sách giáo khoa đưa vào thư viện cho học sinh mượn. Đối với các trường vùng cao hoặc hải đảo xa xôi, đây là phương án giúp cho các hiệu trưởng đỡ đau đầu khi phải tính toán sử dụng nguồn kinh phí tăng cường cơ sở vật chất để trang bị sách giáo khoa.
Gỡ khó khi triển khai Chương trình Sách giáo khoa mới
Năm học 2021 - 2022, các trường tiểu học và THCS thực hiện Chương trình GDPT 2018 với khối lớp 1, lớp 2 và lớp 6.
Cô trò Trường Tiểu học Trần Phú, TP Uông Bí (Quảng Ninh). Ảnh: NTCC
Tuy còn nhiều thiếu thốn, bỡ ngỡ và khó khăn, song các nhà trường tại Hải Phòng, Quảng Ninh vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm để hoàn thành mục tiêu chương trình đề ra, có thêm nhiều bài học cho năm học mới.
Khắc phục khó khăn
Cô Nguyễn Thị Thu Hồng - Hiệu trưởng Trường Tiểu học Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Bảo, TP Hải Phòng - cho hay, thực hiện Chương trình SGK mới, nhà trường lựa chọn bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. Sau thời gian dạy học với học sinh lớp 1 và lớp 2, nhà trường nhận thấy học sinh nắm bắt kiến thức tốt.
Nhưng với đặc thù xã nông thôn nhỏ nhất huyện, điều kiện sống của người dân còn nhiều khó khăn. Hầu hết, cha mẹ trẻ làm nghề nông nghiệp, hoặc công nhân nên trẻ không được chăm lo chu đáo. Chuyện học hành của trẻ phụ huynh đều giao phó cho giáo viên.
Trường có 220 học sinh, cơ sở vật chất được xây dựng từ lâu, diện tích phòng học nhỏ nên dù chỉ có 44 học sinh lớp 1 và 40 em lớp 2 nhưng trường vẫn phải biên chế thành 2 lớp học. Theo đúng quy định của chương trình mới, Trường Tiểu học Vĩnh Phong còn thiếu 2 giáo viên dạy văn hóa.
Sau 2 năm thực hiện thay sách, chất lượng giáo dục của Trường Tiểu học Trần Phú nâng lên so với những năm trước. Thầy cô có nhiều đổi mới, sáng tạo trong thích ứng với dạy học phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. Học sinh mạnh dạn, tự tin, bắt nhịp vào môi trường giáo dục mới, chủ động trong việc học. Các em được rèn luyện nhiều kĩ năng, trong đó với học sinh dân tộc thiểu số kĩ năng giao tiếp được phát triển.
Theo cô Hồng, những khó khăn kể trên nhà trường đều có thể khắc phục được để bảo đảm theo đúng tiến độ và chất lượng chương trình. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất là đại dịch Covid-19 khiến một số học sinh của trường mắc bệnh và phải học onilne. Ít gia đình có máy tính cho trẻ, chủ yếu dùng bằng điện thoại cho con học, trong khi ban ngày phụ huynh đi làm nên cô trò chỉ có thể onilne vào buổi tối. Học sinh lớp 1, lớp 2 nếu không có sự giám sát của phụ huynh thì chất lượng giáo dục không thể đáp ứng.
Trường Tiểu học Trần Phú, thành phố Uông Bí (Quảng Ninh) nằm trong xã vùng sâu Vàng Danh. Trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II và chuẩn Kiểm định chất lượng giáo dục cấp độ III vào năm 2017. Khi thực hiện chương trình mới, nhà trường có nhiều thuận lợi về cơ sở vật chất, đủ phòng học và bàn ghế cho 30 lớp học 2 buổi/ngày.
Theo thầy Nguyễn Trung Dũng, Hiệu trưởng, để thực hiện tốt chương trình mới, trường ưu tiên mọi nguồn lực cho học sinh đầu cấp. Trường tăng cường tham mưu, đầu tư cơ sở vật chất phục vụ cho công tác giảng dạy, tập trung bồi dưỡng đội ngũ, tích cực đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng giáo dục. Vì thế, dù địa bàn còn nhiều khó khăn, có nhiều con em người dân tộc thiểu số nhưng tỷ lệ học sinh đến trường đạt 100%.
Thầy Dũng cũng cho rằng, khó khăn lớn nhất của nhà trường là 2 năm gần đây dịch bệnh ảnh hưởng lớn đến công tác giáo dục. Nhiều hoạt động được xây dựng nhưng không được tổ chức quy mô rộng.
Sau 2 năm thực hiện thay sách, chất lượng giáo dục của Trường Tiểu học Trần Phú nâng lên so với những năm trước. Thầy cô có nhiều đổi mới, sáng tạo trong thích ứng với dạy học phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh. Học sinh mạnh dạn, tự tin, bắt nhịp vào môi trường giáo dục mới, chủ động trong việc học. Các em được rèn luyện nhiều kĩ năng, trong đó với học sinh dân tộc thiểu số kĩ năng giao tiếp được phát triển.
Giờ học theo chương trình mới, học sinh được rèn luyện kĩ năng làm việc nhóm. Ảnh minh họa.
Đi đầu đổi mới
Năm học này, Trường THCS Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng (TP Hải Phòng) có 650 học sinh, trong đó có 179 học sinh lớp 6. Cô Vũ Thị Mai Hương - Hiệu trưởng nhà trường - chia sẻ: Tuy ở vùng nông thôn, còn nhiều khó khăn so với các trường học ở nội thành, nhưng đổi lại nhà trường có thuận lợi từ sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh. Đặc biệt, đội ngũ giáo viên của trường yêu nghề, giàu kinh nghiệm và tiên phong đổi mới.
Cái khó nhất với nhà trường là bố trí đội ngũ dạy học môn liên môn Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội. Tuy nhiên, quá trình triển khai nhà trường đã linh hoạt bố trí giáo viên đúng chuyên ngành dạy học theo phân môn.
Quá trình nghiên cứu môn học, cô Nhung nhận thấy, liên môn Khoa học tự nhiên có nhiều ưu điểm. Môn học góp phần gắn kết những kiến thức khoa học với cuộc sống, quan tâm tới những nội dung gần gũi với cuộc sống hàng ngày của học sinh, tăng cường vận dụng kiến thức khoa học vào tình huống thực tế.
Cô giáo Nguyễn Thị Nhung, giáo viên môn Hóa Lý của trường là người giàu kinh nghiệm trong công tác. Cô là một trong những giáo viên tiên phong đổi mới và đảm nhiệm dạy môn Khoa học tự nhiên. Cô Nhung được phân công dạy phân môn Hóa học, Vật lý; phân môn Sinh học có một giáo viên khác phối hợp.
Quá trình nghiên cứu môn học, cô Nhung nhận thấy, liên môn Khoa học tự nhiên có nhiều ưu điểm. Môn học góp phần gắn kết những kiến thức khoa học với cuộc sống, quan tâm tới những nội dung gần gũi với cuộc sống hàng ngày của học sinh, tăng cường vận dụng kiến thức khoa học vào tình huống thực tế.
Cô Nhung tích cực sinh hoạt chuyên môn theo cụm, theo huyện để tìm giải pháp thực hiện tốt chương trình. Quá trình đó cô giáo đã mạnh dạn lên lớp chuyên đề với bài dạy: Tiết 20 (Bài 11): Oxygen - Không khí.
Theo cô Nhung, bài dạy này rất hay. Bài học không chỉ cung cấp cho học sinh kiến thức về oxygen và tầm quan trọng của oxygen trong cuộc sống; sự cháy và quá trình đốt cháy nguyên liệu. Qua đó, học sinh còn được thực hành xác định thành phần phần trăm về thể tích của oxygen trong không khí. Bài học giúp trò phát triển năng lực tự chủ và tự học, năng lực làm việc nhóm, giao tiếp và hợp tác. Qua đó rèn phẩm chất chăm chỉ, chịu khó, ham tìm tòi, học hỏi và cẩn thận trong thực hành thí nghiệm.
Cô Vũ Mai Hương cho biết thêm, trăn trở với đội ngũ giáo viên lớp 6 là bước vào chương trình mới làm thế nào để xâu chuỗi kiến thức. Vì thế, thầy cô khá vất vả để kết hợp chiều dọc, chiều ngang của kiến thức để đạt hiệu quả giáo dục như mong muốn. Thuận lợi với Trường THCS Kiến Thiết là học trò phải học online chỉ 3 tuần (từ 9 - 25/2), vì vậy mọi hoạt động giáo dục không bị ảnh hưởng nhiều. Với những học sinh bị F0 giáo viên chủ động lịch bồi dưỡng cho các em vào buổi chiều. Nhà trường tự tin với chất lượng giáo dục.
Trong cái khó "ló" cái hay, thực hiện chương trình mới với tích hợp nhiều phương pháp, đồng thời dịch bệnh buộc thầy cô phải thay đổi cách tư duy giảng dạy và ứng dụng công nghệ thông tin vào bài giảng. Từ đó một số tài năng của giáo viên về công nghệ được khai phá. Có những thí nghiệm ảo các môn như Vật lý, Hóa học được thực hiện trên không gian mạng khiến học sinh thích thú. Nhiều môn học nhờ công nghệ thông tin mà giáo viên xây dựng được những clip hay giới thiệu đến học sinh khiến cho môn học đa dạng, hấp dẫn. - Cô Vũ Thị Mai Hương
Giáo viên nêu nhiều băn khoăn xung quanh Sách Ngữ văn 6, bộ Chân trời sáng tạo Cùng một bài thơ, một tác giả, nhưng lớp 4 các em học sinh vừa học là "Truyện cổ nước mình" nhưng lên đến lớp 6 lại có tên là "Chuyện cổ nước mình". Năm học 2022-2023, chúng tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 6, bộ Chân trời sáng tạo của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, do Nguyễn...