“Không giảng dạy, không nghiên cứu mà vẫn xưng danh giáo sư là không ổn”
Các GS,PGS đã nghỉ hưu, hoặc đã chuyển vị trí làm việc sang lĩnh vực không còn tiếp tục hoạt động giáo dục và khoa học (làm ‘quan’ chẳng hạn), theo qui định của Luật giáo dục hiện hành (Điều 71) thì “GS,PGS là chức danh của nhà giáo đang giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học”. Như vậy, những người này đương nhiên không còn giữ chức danh GS,PGS mà ta vẫn gọi họ bằng danh xưng GS, PGS là không ổn.
Đó là ý kiến của GS.TS Trần Đức Viên, Học viện Nông nghiệp Việt Nam khi trao đổi với phóng viên Dân trí về việc Giáo sư nên là chức danh hay chức vụ và bầu Hội đồng giáo sư các cấp sắp tới. Dân trí tiếp tục đăng phần 2 của cuộc phỏng vấn này.
(Bài 1: Bổ nhiệm Hội đồng giáo sư: Cần người liêm chính, khả tín để loại bỏ thói háo danh)
Giáo sư – nên là chức vụ nghề nghiệp
Phóng viên: Thưa ông, giáo sư, phó giáo sư hiện nay nên hiểu là chức danh hay chức vụ nghề nghiệp?
GS.TS Trần Đức Viên: Nếu GS là chức danh thì giáo sư là một sự ghi nhận, sự tôn vinh của xã hội, sự vinh danh của nhà nước cho một cá nhân dựa trên bộ tiêu chí được nhà nước ban hành và được xã hội tôn trọng; và nhà nước đứng ra phong tặng chức danh (hay danh hiệu) này.
Danh hiệu này đi suốt cuộc đời người được phong tặng, và cũng không thể bị (nhà nước) tước bỏ, trừ trường hợp rất đặc biệt. Ở đây cũng không có chuyện bổ nhiệm chức danh.
Nếu ‘giáo sư’, ‘phó giáo sư’ là một chức vụ khoa học, thì phải được nhà nước hay cơ quan được nhà nước ủy quyền, có thể là cơ quan quản lý giáo dục cao nhất hay Hội đồng GS nhà nước, hay cơ sở giáo dục đại học bổ nhiệm cho cá nhân nhà giáo, nhà khoa học trong thời gian giảng dạy ở trường Đại học đó nếu họ hội đủ các điều kiện và tiêu chuẩn theo qui định (của nhà nước hoặc của nhà trường).
Khi họ về hưu, chuyển công tác khác, hoặc không xứng đáng nữa thì miễn nhiệm và cơ sở giáo dục tuyển chọn người khác để bổ nhiệm.
Cho đến nay, chúng ta vẫn xem GS,PGS vừa là chức danh, vừa là chức vụ, vừa phong tặng, vinh danh, vừa bổ nhiệm.
Hàng năm (trừ năm nay) Hội đồng chức danh Giáo sư nhà nước tổ chức phong tặng trao giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn cho các GS,PGS, sau đó các vị ‘đủ tiêu chuẩn và điều kiện’ này mới về lại các trường đại học làm thủ tục ‘xin’ bổ nhiệm, và (tuyệt đại đa số) được nhà trường bổ nhiệm.
Ở xứ ta còn có chuyện thật như bịa, ấy là phạm Luật một cách có tổ chức và liên tục kéo dài mà không ai bị xử lý, dù là phê bình, nhắc nhở.
Điều 71. Luật Giáo dục được Quốc hội khóa XI ban hành ngày 14 tháng 6 năm 2005 về giáo sư, phó giáo sư đã qui định “Giáo sư, phó giáo sư là chức danh của nhà giáo đang giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học”; thế nhưng những người đã nghỉ hưu, những người đã không còn giảng dạy và NCKH tại một cơ sở giáo dục đại học nào nữa vẫn được phong tặng và bổ nhiệm, nhiều vị vốn là người ‘đẻ’ ra Luật nay không còn tham gia giảng dạy hay NCKH nữa vẫn ‘vô tư’ để mọi người gọi mình là Giáo sư!
Những bất cập này đã tác động không nhỏ đến tâm lý xã hội.
GS.TS Trần Đức Viên – Học viện Nông nghiệp VN
Vậy còn danh xưng của các nhà giáo, nhà khoa học này khi không còn là GS,PGS (đang làm việc) nữa, thưa ông?
Tuyệt đại đa số các GS, PGS đã được Nhà nước phong từ trước đến nay đều rất xứng đáng, cả về phẩm chất và năng lực. Có người đã mất, có người tuổi cao, có người sức khỏe yếu, có người chuyển công tác nên không còn điều kiện để có thể tiếp tục hoạt động đào tạo và NCKH… Nhưng họ vẫn được xã hội tôn trọng và cộng đồng các nhà khoa học cùng chuyên môn ngưỡng mộ và tin yêu, vì họ đã có những đóng góp rất xứng đáng cho đào tạo, cho khoa học, cho nhà trường và cho xã hội.
Các GS,PGS đã nghỉ hưu, hoặc đã chuyển vị trí làm việc sang lĩnh vực không còn tiếp tục hoạt động giáo dục và khoa học (làm ‘quan’ chẳng hạn), theo qui định của Luật giáo dục hiện hành (Điều 71) thì “GS,PGS là chức danh của nhà giáo đang giảng dạy ở cơ sở giáo dục đại học”. Như vậy, những người này đương nhiên không còn giữ chức danh GS,PGS mà ta vẫn gọi họ bằng danh xưng GS, PGS là không ổn.
Theo QĐ37, sẽ có các GS,PGS không còn đủ tiêu chuẩn sau mỗi lần rà soát, đánh giá (5 năm một lần), hay trường hợp được bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư tại cơ sở giáo dục đại học này khi chuyển sang làm công tác giảng dạy tại cơ sở giáo dục đại học khác nhưng cơ sở giáo dục đại học họ chuyển đến không có nhu cầu của chức danh giáo sư, phó giáo sư hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức không thực hiện công tác giảng dạy hoặc doanh nghiệp, thì có nên có một cái ‘danh’ nào đó cho họ không. Ví dụ như có gọi họ là “nguyên GS,PGS” hoặc chọn một từ nào đó phù hợp hơn không?
Ở các nước Âu – Mỹ có một danh xưng ‘Emeritus Profecsor’ (GS đã nghỉ hưu với hàm ý danh dự), việc họ có được cộng đồng khoa học của nơi họ làm việc và các đồng nghiệp cùng chuyên môn kính trọng và ngưỡng mộ ở mức độ nào là thùy thuộc vào chính năng lực khoa học và đạo đức nghề nghiệp của họ, nhưng Nhà nước cũng nên có một qui định nào đó mang tính “kim chỉ có đầu”, nhất là ở một đất nước còn nặng về sỹ diện (hão) như xứ ta.
Có lẽ là bản thân họ (các nhà khoa học thực sự) cũng vẫn cảm thấy tự hào, hãnh diện về danh hiệu ấy (Emeritus Profecsor hay một danh xưng nào tương tự như thế); còn những người không xứng đáng, thì cũng không vì thế mà ‘mất mặt’.
Vậy, theo ông, phải gọi như thế nào cho chuẩn?
Đúng ra phải gọi là ‘chức vụ’, danh xưng ấy phù hợp với thông lệ quốc tế; hơn nữa trên thực tế, GS hay PGS đều gắn với các nhiệm vụ cụ thể nào đó của cơ sở giáo dục đại học (CSGDĐH), với vị trí việc làm cụ thể của một Nhà trường.
Có người coi việc dùng danh xưng ‘chức danh’ là bước ‘lùi’ so với Quyết định 131-CP do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký ngày 29/4/1980… công nhận chức vụ khoa học (đợt I).
Tháng 3/2016 Trường Đại học Tôn Đức Thắng tự bổ nhiệm các chức vụ (position) giáo sư, phó giáo sư của họ; việc làm ấy, đã như một cơn “địa chấn”, gây ra bao cuộc tranh luận, phần nhiều là trái chiều, gay gắt. Ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
Thực ra ở nhiều nước, việc bổ nhiệm chức vụ này là công việc bình thường của các trường đại học; và thậm chí là trường còn phân cấp cho các khoa, viện giống như phân cấp trong đào tạo vậy, xuất phát từ nhu cầu phát triển của khoa, xây dựng thương hiệu của Nhà trường…
Vì vậy, điều kiện và tiêu chuẩn là do mỗi trường, mỗi khoa xây dựng nên, phù hợp với quá trình phát triển của trường, của khoa, thể hiện đẳng cấp và văn hóa của mỗi khoa, mỗi trường, không có GS,PGS “cả làng”, cũng không có giáo sư “cấp nhà nước”.
Không tham gia giảng dạy thì không nên xưng danh là giáo sư?
Công nhận giáo sư – thực hiện như Tự chủ đại học
Nhiều ý kiến cho rằng, không nên tiếp tục duy trì Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước như hiện nay vì như vậy đi ngược lại với xu thế của thế giới?
Tuy rằng, trên thế giới chỉ còn vài ba nước có có nền giáo dục đại học phát triển là còn tồn tại HĐCDGSNN, nhưng trong điều kiện cụ thể hiện nay của Việt Nam, chúng ta vẫn nên và cần duy trì HĐCDGSNN, để qui định những vấn đề chung nhất của việc xét, bổ nhiệm và miễn nhiệm này, như việc xác định điều kiện và tiêu chuẩn tối thiểu (điểm “sàn”) chẳng hạn.
Video đang HOT
Nhưng cũng nên mạnh dạn thí điểm rồi sau đó giao quyền cho các cơ sở giáo dục đại học tự làm công việc xét và công nhận GS,PGS như cách Chính phủ đang làm với Tự chủ đại học vậy.
Công việc này cần phải được phân cấp mạnh mẽ hơn nữa theo tiến trình tự chủ; vì hiện nay chưa có qui định nào cho phép các trường được tự xây dựng bộ quy định tiêu chuẩn xét, bổ nhiệm chức vụ GS,PGS của CSGDĐH. Thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học hiện nay mới chỉ được phép thực hiện quy trình bổ nhiệm các chức danh này.
Vậy, theo ông vấn đề này sẽ thực hiện thí điểm như thế nào?
Căn cứ để giao thí điểm có thể là đội ngũ (số lượng GS,PGS), năng suất khoa học (số lượng công bố quốc tế và tương đương, trong đó có NSKH của 5 năm liền kề), nhất là sự tự nguyện và quyết tâm của cơ sở giáo dục.
Cách làm hiện nay mới chỉ thấy ‘bóng dáng’ tự chủ của các Trường qua việc giao quyền cho ‘người đứng đầu cơ sở giáo dục đại học ra quyết định bổ nhiệm chức danh GS,PGS đối với ứng viên có đủ điều kiện” (Mục 4 Điều 27. “Trình tự xét bổ nhiệm chức danh GS,PGS”).
Theo tôi, điều đầu tiên để nhà nước có thể tin tưởng giao quyền tự chủ việc xét và bổ nhiệm các chức vụ GS,PGS là các cơ sở giáo dục này cần phải có dữ liệu khoa học về đội ngũ giảng dạy đại học của họ (TS,GS,PGS); để từ đó xây dựng hệ thống tính điểm xét công nhận GS, PGS của riêng CSGD này. Ví dụ như 5 hay 4 điểm cho 1 công bố trên SCI, 3 hay 2 điểm cho SCIE, 2 hay 1 điểm cho Scopus, hội thảo quốc tế hoặc hội thảo trong nước có phản biện, ngôn ngữ sử dụng là tiếng Anh được 1 điểm…
Ngay trong một trường, một khoa cũng phần phân định rõ các điều kiện và tiêu chuẩn của họ, ví dụ như thế nào là “nghiên cứu xuất sắc”, thế nào là “đóng góp xuất sắc”…
Bộ tiêu chuẩn của HDCDGSNN chỉ là ‘khung pháp lý’ không đánh giá được chi tiết từng người xem họ có đạt chuẩn hay không và đạt chuẩn như thế nào; các trường, sau khi có ‘điểm sàn’ tùy theo điều kiện và thực trạng của mình, đưa ra các điều kiện và tiêu chí cao hơn phù hợp với từng ngành, không thể yêu cầu ngành lịch sử có điều kiện và tiêu chuẩn xét, bổ nhiệm, miễn nhiệm như ngành công nghệ sinh học ….
Nghĩa là tất cả các trường và các chuyên ngành đều phải xây dựng bộ tiêu chuẩn dựa trên khung tiêu chuẩn chung, đó là các tiêu chuẩn về giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đóng góp cho chuyên ngành, đóng góp cho trường, và đóng góp cho xã hội.
Mỗi ngành, mỗi trường sẽ có “điểm chuẩn” riêng để duy trì và khẳng định ‘tầm cỡ’ của một ngành khoa học, của một trường đại học. Khi ấy, chức vụ GS,PGS mặc nhiên được gắn với tên trường đại học, không còn là GS “cả nước” nữa; và chỉ khi ấy thì chức vụ GS,PGS mới thực sự gắn với vị trí việc làm, các cơ sở đào tạo bổ nhiệm, sử dụng các “vị trí việc làm” này, và việc các cơ sở giáo dục đại học miễn nhiệm các chức vụ này sẽ là điều bình thường, thể hiện vai trò tự chủ của cơ sở giáo dục đại học.
Nhiều trùng lặp giữa Hội đồng cơ sở và Hội đồng ngành
Về quy trình, trình tự thủ tục 3 cấp hội đồng còn khá nặng nề, gây khó khăn cho nhà khoa học, vì mọi người chưa thấy có sự khác biệt rõ nét giữa 3 cấp hội đồng?
Sắp tới (nghĩa là sau 5 năm nữa) cũng nên xem xét bỏ một số công đoạn không cần thiết vì có sự trùng lặp giữa HĐCS và Hội đồng ngành, liên ngành.
Thực ra đánh giá báo cáo khoa học tổng quan và kiểm tra trình độ ngoại ngữ ở cả Hội đồng chức danh GSCS và HĐ ngành đều rất hình thức, không thực chất; hình như chưa có ai bị trượt vì báo cáo khoa học tổng quan, còn trượt ngoại ngữ ở Hội đồng ngành, liên ngành rất ít, trừ những ứng viên quá lười, không chịu khó ôn luyện trước khi HĐ đánh giá trình độ ngoại ngữ, còn cứ chịu khó “học thuộc” là qua.
Hơn nữa, trình độ tiếng Anh của đa số các ứng viên trong các năm tới sẽ khác xa so với thế hệ cha anh họ, chưa dám nói là thậm chí ứng viên còn giỏi ngoại ngữ hơn thành viên Hội đồng.
Thiển nghĩ, khi đã có các tiêu chuẩn và điều kiện tường minh của các thành viên hội đồng và của các ứng viên rồi, nhất là các tiêu chuẩn về công bố quốc tế, thì cũng nên mạnh dạn giao công việc này về cho các trường, và đó mới là thông lệ quốc tế; khi đó có thể bỏ Hội đồng ngành, liên ngành.
Thời gian qua, đã có những hội đồng ngành/liên ngành để lại tai tiếng, chứ không phải hội đồng cơ sở. Người ta vẫn truyền tai nhau về Hội đồng liên ngành nọ, hầu hết thành viên Hội đồng không có công bố quốc tế, quá nửa thành viên Hội đồng không nghe nói thông thạo tiếng Anh, đã “dũng cảm” liên tục đánh trượt (bằng bỏ phiếu và một số qui định nội bộ chẳng giống ai) một số ứng viên có hàng chục công bố quốc tế và trình độ tiếng Anh của họ gần như tiếng mẹ đẻ.
HĐ Nhà nước khi ấy chỉ còn giữ vai trò quản thay mặt nhà nước, nếu cần, giám sát hoạt động của HĐCDGSCS, thanh tra, kiểm tra, đề ra ‘luật chơi chung’ và các công việc chuyên môn khác. Có người lo rằng, Hội đồng cơ sở sẽ bình duyệt không nghiêm túc, do cả người xét và ứng viên đều là ‘người nhà’, trong khi tâm lý ‘một trăm cái lý không bằng một tý cái tình’ vẫn đang ngự trị, điều đó khó tránh khỏi.
Hội đồng giáo sư Nhà nước chỉ nên giữ vai trò là giám sát hoạt động của Hội đồng giáo sư cơ sở
Nhưng điều đó hoàn toàn có thể bị loại trừ khi chúng ta đã có được bộ các tiêu chuẩn và điều kiện của Hội đồng và ứng viên tường minh, tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế, trong đó công bố trên các tạp chí khoa học chuyên ngành quốc tế có uy tín là tiêu chuẩn bắt buộc, thưa ông?
Đúng vậy! Theo thông lệ quốc tế, thì việc xét phong GS,PGS là việc của các đại học (của HĐ cơ sở như ở ta), họ tự làm việc ấy theo nhu cầu của chính họ. Vì vậy, cần củng cố Hội đồng cơ sở trên cơ sở các tiêu chuẩn và điều kiện được quốc tế hóa với sự tư vấn, giám sát, kiểm tra, đánh giá, hướng dẫn… của HĐCDGS Nhà nước.
Người ta mong là, 10-15 năm nữa công việc xét phong chức vụ GS, PGS là công việc thường niên của các CSGDĐH, không còn tồn tại Hội đồng ngành, liên ngành và thậm chí là cả Hội đồng CDGSNN nữa.
Bộ trưởng có thể không phải là Chủ tịch Hội đồng GSNN
Có ý kiến cho rằng, để phù hợp với thông lệ quốc tế cũng nên bỏ quy định bắt buộc Chủ tịch HĐGSNN là Bộ trưởng, ông thấy thế nào?
Đây là hoạt động nghề nghiệp, hoạt động chuyên môn của cộng đồng các nhà khoa học thì nên trao lại công việc này cho cộng đồng các nhà khoa học.
Nếu thật cần thiết (như để đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối mọi hoạt động chẳng hạn), thì về mặt quản lý nhà nước, không thiếu gì cách để Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quản lý hoạt động này, ví dụ như Thủ tướng có thể ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ GD&ĐT quản lý hay giám sát hoạt động của Hội đồng CDGSNN chẳng hạn.
Cố gắng tránh tối đa lối tư duy “hành chính hóa”, tránh biến hội đồng học thuật thành một thứ “cung bậc” của chính quyền, vì vậy chủ tịch Hội đồng từ cấp cơ sở đến cấp nhà nước nên là các nhà khoa học có uy tín cao, được cộng đồng khoa học trong nước và các nhà khoa học nước ngoài cùng chuyên môn kính trọng và thừa nhận.
Quy định chủ tịch Hội đồng các cấp là GS đầu ngành, rồi lại quy định Chủ tịch HĐ Nhà nước là Bộ trưởng, nghe không được thuận tai cho lắm, dù có thể các vị ấy với thành tích KH của mình, hoàn toàn xứng đáng, và còn hơn thế nữa, với chức danh GS chủ tịch HĐCDGSNN.
Đã không phải là một cấp hành chính, thì cũng bỏ luôn quy định các thành viên HĐ tham gia không quá 2 nhiệm kỳ liên tiếp. Ai vẫn đang hoạt động KHCN và giảng dạy, vẫn công bố quốc tế, vẫn được cộng đồng khoa học của họ tín nhiệm và ngưỡng mộ, vẫn đảm bảo sức khỏe về thể chất và tinh thần, thì việc tham gia hay không tham gia Hội đồng là việc của Hội đồng và của cá nhân nhà khoa học.
Trong điều kiện hiện nay, chúng ta chưa vội phân chia các chức danh này thành 3 cấp Trợ lý Giáo sư (Assistant Professor), Phó Giáo sư (Associate Professor) và Giáo sư (Professor); và cũng chưa đến lúc phân chia thành 3 ngạch của chức danh này là GS hay PGS nghiên cứu, giảng dạy và phục vụ như nhiều nước tiên tiến đang làm.
Vậy, nhà nước phải có một cơ chế giám sát?
Người ta thấy là, việc xét (sàng lọc, thẩm định) qua 3 cấp Hội đồng nghe rất chặt chẽ, nghiêm túc và tường minh; tiếc là trên thực tế có ứng viên có số điểm qui đổi cao gấp nhiều lần điểm tối thiểu vẫn trượt là do phiếu tín nhiệm không đạt.
Có người cho rằng, đây không phải là ‘phiếu tín nhiệm’, mà là “phiếu vừa lòng”. Cơ chế nào xác định trách nhiệm của các cấp Hội đồng và của người thẩm định hồ sơ của các ứng viên này? Cơ chế nào giúp cơ quan quản lý và xã hội có thể giám sát, kiểm tra, thanh tra qui trình và quá trình bỏ phiếu tín nhiệm?
Nên chăng, Hội đồng phải giải trình công khai lý do các ứng viên không được công nhận đủ tiêu chuẩn. Nếu được như thế, sẽ làm các ứng viên ‘trượt’, và cả xã hội nữa, tâm phục khẩu phục, vì rất công khai và dân chủ; hạn chế tối đa trường hợp giáo sư ‘dởm’ đánh trượt giáo sư ‘thiệt’.
Trân trọng cám ơn ông về cuộc trao đổi này!
Hồng Hạnh
Theo Dân trí
Bổ nhiệm Hội đồng giáo sư: Cần người liêm chính, khả tín để loại bỏ thói háo danh
Xã hội và cộng đồng khoa học đang mong đợi sự ra đời của Hội đồng giáo sư nhà nước nhiệm kỳ 2019-2023 theo tiêu chuẩn đã được Chính phủ qui định trong Quyết định 37. Vậy, làm thế nào để chọn được các Hội đồng Giáo sư có uy tín khoa học, tự trọng và trách nhiệm?
Phóng viên Dân trí đã có cuộc trao đổi với GS.TS Trần Đức Viên, nguyên là Giám đốc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, hiện là Phó chủ tịch Hội đồng Giáo sư nhà nước ngành nông - lâm nghiệp.
Chấm dứt tình trạng "giáo sư suốt đời"
Thưa giáo sư, Quyết định số 37/2018/QĐ-TTg ngày 31/8/2018 về qui định tiêu chuẩn, thủ tục xét công nhận đạt tiêu chuẩn và bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư (QĐ37) mà Thủ tướng vừa ban hành, giáo sư tâm đắc nhất về những quy định nào và còn băn khoăn gì nữa không?
Quyết định 37 đã đáp ứng được mong mỏi và kỳ vọng của giới "học thuật" nước nhà, của xã hội, không còn lạc lõng với thế giới nữa.
Người ta mừng vì chất lượng GS,PGS của chúng ta - lực lượng rường cột của nền GD&ĐT và KH&CN nước nhà - rồi sẽ được nâng lên một bước, đã được 'quốc tế hóa' đáng kể. Ví dụ:
Về tiêu chuẩn, chúng ta đã lấy năng lực nghiên cứu khoa học và năng suất khoa học của đội ngũ các nhà giáo cao cấp trong môi trường đại học (GS,PGS) thông qua các "thước đo" quốc tế (công bố trên các tạp chí quốc tế uy tín) làm tiêu chí hàng đầu.
Thủ tục cũng qui chuẩn hơn, như nhiệm kỳ bổ nhiệm chức danh là 5 năm, chấm dứt tình trạng "giáo sư suốt đời"; cứ 5 năm các chức danh này lại được rà soát, đánh giá lại một lần, nghĩa là "có vào có ra"; tiêu chuẩn, điều kiện cũng được áp dụng linh hoạt, không còn tỷ mẩn lẫn lộn giữa điều kiện cần và điều kiện đủ như trước (chỉ cần 1 điều kiện, tiêu chuẩn "cứng" nào đó không đủ là ứng viên bị gạt ra khỏi "cuộc chơi"). Nay, các tiêu chuẩn, điều kiện đã có thể hoán chuyển cho nhau (thiếu điều kiện này thì có thể "bù" bằng tiêu chuẩn khác).
Bên cạnh đó, người thẩm định hồ sơ và kết quả thẩm định sẽ được công khai sau khi HDGSNN công bố kết quả đạt chức danh GS, PGS (không còn ai 'ném đá giấu tay' hay 'gắp lửa bỏ tay người', tất cả đều là người tử tế và đàng hoàng). Đó là những bước tiến đáng kể trong hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, quyết định của Thủ tướng không thể cặn kẽ, cụ thể và bao phủ được hết những vấn đề mang tính kĩ thuật của việc xét chọn, bổ nhiệm nên đâu đó vẫn còn những băn khoăn và âu lo. Nhưng người ta tin là "Tài liệu hướng dẫn xét công nhận đạt tiêu chuẩn GS,PGS" (Tài liệu hướng dẫn) của HĐGSNN sắp ban hành sẽ giải tỏa được phần lớn những âu lo và băn khoăn ấy.
Theo tôi, có 3 vấn đề dư luận quan tâm nhiều, đó là: chất lượng Hội đồng, tức là trình độ và phẩm chất của các vị thành viên Hội đồng các cấp; chất lượng/tiêu chuẩn của ứng viên; và tiến trình hội nhập quốc tế của việc xét và bổ nhiệm các chức danh cao quí này.
GS.TS Trần Đức Viên
Thành viên Hội đồng: Phải là những con người tự trọng và trách nhiệm
Trong 3 vấn đề mà GS vừa nên thì vấn đề chất lượng Hội đồng, trình độ và phẩm chất của các vị thành viên Hội đồng các cấp có lẽ sẽ được quan tâm nhiều nhất vì họ là người "cầm cân nảy mực" xét để đưa ra một đội ngũ GS,PGS có chất lượng. Tuy nhiên, thực tế vừa qua, có ý kiến nói về chất lượng một số thành viên Hội đồng không những yếu về chuyên môn mà còn cả về tư cách. Vậy, trong đợt bầu chọn Hội đồng theo quy định mới này, theo GS, những người đứng trong Hội đồng xét duyệt chức danh GS,PGS phải là người có phẩm chất và năng lực như thế nào?
Hội đồng thế nào thì chất lượng đội ngũ GS, PGS thế ấy, vì "ở bầu thì tròn ở ống thì dài"; phẩm chất và năng lực của các vị cầm cân nảy mực này thế nào thì phẩm chất và năng lực của đội ngũ các GS, PGS của đất nước trong những năm tới sẽ theo đó mà 'tròn' hay 'dài' theo.
Tiêu chuẩn và điều kiện thành viên Hội đồng đã không chuẩn mực thì các quy định về tiêu chuẩn ứng viên có nâng cao thêm, hay quy trình xét duyệt có chặt chẽ đến mấy cũng ít có ý nghĩa thực sự trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ GS,PGS của nước nhà.
Vì vậy, cùng với việc nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện của các ứng viên, một việc tất yếu rất hệ trọng, mang tính quyết định là phẩm chất, năng lực, trình độ, uy tín khoa học của các thành viên Hội đồng cũng phải được nâng cao tương ứng, tương tự như cách Bộ GD&ĐT đã làm khi đưa ra chuẩn tiến sỹ mới, chất lượng tiến sĩ nâng lên thì đương nhiên chất lượng của người hướng dẫn, của Hội đồng cũng phải được nâng cao theo.
Xã hội đang kỳ vọng các quy định mới sẽ nâng cao chất lượng Hội đồng các cấp theo hướng tiệm cận dần với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, trong đó công bố quốc tế là tiêu chí hàng đầu; cùng với đó là đạo đức khoa học, đạo đức nhà giáo của các vị thành viên Hội đồng, trước hết đó phải là những con người tự trọng và trách nhiệm; nhờ thế, sẽ có được các Hội đồng liêm chính, khách quan, trung thực và khả tín.
Những năm qua, chúng ta đã có nhiều vị thành viên Hội đồng đáng kính, nhờ thế, chúng ta cũng đã có không ít Hội đồng xứng đáng với lòng tin và sự kính trọng của xã hội.
Nhưng vẫn còn đâu đó, khi âm ỉ lúc râm ran, những lời đàm tiếu, chê bai, những bức xúc không đáng có về trình độ Hội đồng này, về tư cách Hội đồng kia.
Tôi nhớ, đã có thời, khi đội ngũ các nhà khoa học còn rất mỏng, chúng ta đã có Hội đồng chức danh liên ngành khá rộng, như 'khoa học xã hội' gồm nhiều bộ môn khoa học khác nhau như sử, ngôn ngữ, triết, văn học, âm nhạc, khảo cổ, hội họa... , các Hội đồng liên ngành khác cũng không hơn gì, thế mà các Hội đồng ngày ấy vẫn làm được nhiều việc lớn cho đất nước, vẫn được xã hội kính trọng và ngưỡng mộ, đã để lại tiếng thơm cho hậu thế.
Suy cho cùng, các Hội đồng bình xét chức danh GS, PGS các cấp cũng chỉ là một tổ chức kiểu "peer review comittees", nên những người cầm cân nảy mực (thành viên Hội đồng) phải là những người có thành tích chuyên môn và năng suất khoa học thấp nhất cũng phải bằng các ứng viên.
Đồng thời, họ còn phải là những nhà giáo, nhà khoa học có tư cách và phẩm chất được các nhà khoa học cùng chuyên môn ngưỡng mộ và kính trọng, phải thực sự là tấm gương sáng để các ứng viên và cộng đồng khoa học học tập và noi theo.
Tránh các "sư" rởm chui vào Hội đồng
Vậy làm thế nào để kiểm tra được độ uy tín khoa học của các thành viên hội đồng, thưa giáo sư?
Đối với ứng viên thì đưa ra tiêu chuẩn này, điều kiện kia rất cụ thể, còn tiêu chuẩn và điều kiện của các vị thành viên Hội đồng thì lại chung chung, kiểu như "có uy tín chuyên môn khoa học cao", rất khó định lượng, thế nào là cao, thế nào là không cao, đo đếm thế nào... Rồi thì "có kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế có uy tín, hoặc là xuất bản ở nhà xuất bản có uy tín trong 5 năm liền kề...; vậy thế nào là NXB (trong nước) có uy tín?.
Tôi nghĩ, qui định tù mù thế này là tạo ra "lối thoát hiểm" cho các nhà khoa học "chất lượng thấp", các "sư" rởm chui vào Hội đồng.
Nên chăng công bố của NXB ấy phải có tên trong amazon.com. Nếu không, từ nay đến khi Thủ tướng Chính phủ thành lập HDCDGSNN và các Hội đồng ngành/liên ngành sẽ có không ít 'nhà khoa học' xuất bản sách theo kiểu "chạy lụt".
Rồi nữa, hồ sơ các ứng viên phải được công khai trên websites của các cấp Hội đồng (Mục 3 Điều 11), còn Lý lịch khoa học của các vị trong Hội đồng các cấp thì không cần công khai trên websites của các cấp Hội đồng sao?
Đây là điểm yếu cốt tử trong minh bạch thông tin và công khai hóa hoạt động khoa học của các nhà khoa học (tất nhiên là không kể các công bố thực sự là bí mật quốc gia, và cả bí mật đời tư nữa).
Còn lý sự kiểu "huấn luyện viên không cần đá bóng giỏi như cầu thủ nhưng vẫn có thể làm huấn luyện viên" để biện minh cho qui định này thì hãy để cho xã hội và các nhà khoa học bình luận.
Nhưng rõ ràng là, 'Tài liệu hướng dẫn' cần chấm dứt hiện trạng tù mù, bất công và bất hợp lý này, trả lại sự công bằng, minh bạch cho cả Thày (Hội đồng) và Trò (ứng viên), không nên làm xã hội nghi ngờ và cộng đồng các nhà khoa học ko tâm phục khẩu phục vì những qui định như thế.
Thêm nữa, các vị này không thể chỉ cần có công bố trong 5 năm liền kề, mà còn cần có thành tựu khoa học và năng suất khoa học trong suốt quá trình hoạt động khoa học của họ cho đến khi có tên trong danh sách Hội đồng.
Lý lịch khoa học của các vị trong Hội đồng, cũng như hồ sơ của các ứng viên, nhất thiết phải được công khai trên mạng cùng với các đường links dẫn đến các công trình và công bố khoa học của họ.
Cũng cần qui định tiêu chuẩn và điều kiện tối thiểu để có thể tham gia Hội đồng, ngoài các qui định về sức khỏe và đạo đức, còn các qui định về chuyên môn phải rõ ràng, ví dụ như cần phải có tối thiểu bao nhiêu công bố quốc tế trên các tạp chí khoa học có chỉ số (10, 20 hay 50 bài?) và chỉ số H của họ cho đến thời điểm được bổ nhiệm vào Hội đồng là bao nhiêu (5, 10, 15 hay 20?).
H-index là một chỉ số hội nhập quốc tế của khoa học Việt Nam, không nên lảng tránh chỉ số này mãi, vì nó chứa đựng được cả hai thông tin: số lượng (số các bài báo được công bố) và chất lượng, tầm ảnh hưởng (số lần được các nhà khoa học khác trích dẫn) của hoạt động khoa học, rất cần được bổ sung vào lý lịch khoa học của các thành viên Hội đồng, nếu chúng ta thực sự muốn hội nhập quốc tế về KH&CN, về GD&DT, nếu chúng ta muốn các Hội đồng của chúng ta được cộng đồng khoa học trong nước và quốc thừa nhận và tôn trọng.
Bổ nhiệm chức danh GS,PGS năm 2017 của trường ĐH Thương Mại
Nên xây dựng cơ sở dữ liệu database để loại bỏ các bài báo ngụy tạo, bài báo fake
Như giáo sư phân tích trên, tôi nghĩ người ta tin là, những Hội đồng đáng kính ấy sẽ góp phần quan trọng vào việc loại bỏ dần thói háo danh và hư danh, thói khoa trương và gian dối của "một bộ phận không nhỏ" các nhà giáo, nhà khoa học trong cộng đồng khoa học nước nhà. Tuy nhiên, để nâng cao tính minh bạch, tính liêm chính và khả tín của Hội đồng chức danh các cấp thì Bộ GD&ĐT cần phải làm thế nào để chọn ra các thành viên Hội đồng GS nhà nước đáng tin cậy?
Một trong các việc "cần làm ngay" của HĐGSNN và của Bộ GD&ĐT là xây dựng càng sớm càng tốt cơ sở dữ liệu (database) về thành tựu và năng suất khoa học của các nhà khoa học VN (tiến sỹ, GS, PGS), để chọn ra các thành viên Hội đồng và các nhà thẩm định hồ sơ ứng viên 'tiềm năng', có lẽ số lượng cũng chỉ khoảng vài ba trăm người.
Công việc này không tốn thời gian và tiền bạc, nếu biết kết hợp với Cục Thông tin KH&CN quốc gia của Bộ KH&CN. Đây là "ngân hàng" nhân lực bổ sung cho các Hội đồng.
Vì vậy, cùng với các chức năng và nhiệm vụ mang tính hành chính của HĐCDGSNN được qui định tại Điều 14 (hướng dẫn hoạt động của các hội đồng, thu nhận báo cáo, xét và thông qua danh sách ứng viên, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo....), thì rất cần được bổ sung thêm các nhiệm vụ mang tính chuyên môn, học thuật.
Về khía cạnh này, nên chăng HĐGSNN có các nhiệm vụ và chức năng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Biên soạn dự thảo các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục bình duyệt, bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh GS, PGS tiệm cận dần với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế để trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, phê chuẩn.
Thứ hai, Tư vấn, giám sát, kiểm tra, đánh giá, hướng dẫn các HĐCS và HĐ ngành, liên ngành;
Thứ ba, Thành lập và duy trì hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia (database) về nhân lực KHCN (GS, PGS, TS) trong đó công khai các công bố trong và ngoài nước, lý lịch KH của các GS,PGS, tiến sỹ (đang làm việc và đã nghỉ hưu) kiểu như ResearchGate đang làm; thống kê năng suất khoa học của các hội đồng chức danh, của các cơ sở đào tạo và NCKH, và công bố công khai trên mạng.
Đây là một cách để từng ngành, chuyên ngành, từng cơ sở giáo dục đại học, từng viện nghiên cứu biết họ đang ở đâu trên "bản đồ học thuật thế giới.
Hoạt động này còn nhằm loại bỏ các bài báo ngụy tạo, bài báo fake (không ít); nhờ thế, chúng ta minh bạch hóa được năng suất khoa học, cũng như dữ liệu khoa học của cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam, trong đó có các vị thành viên Hội đồng và các ứng viên GS,PGS trong tương lai.
Thứ tư, Cùng các cơ sơ giáo dục đại học, các viện nghiên cứu xây dựng các tạp chí khoa học quốc gia của các chuyên ngành KH để các tạp chí ấy tiệm cận dần và từng bước đứng vào hàng ngũ các tạp chí khoa học thuộc hệ thống ISI và Scopus; bước đầu, mỗi chuyên ngành chỉ nên chọn 1 tạp chí có tiềm năng nhất.
Lấy năng xuất khoa học, uy tín chuyên môn, đạo đức... làm trọng
Có một vấn đề này, giáo sư có thể chia sẻ, đó là về độ tuổi của các thành viên Hội đồng như thế nào? Vì nhiều ý kiến cho rằng, có thành viên Hội đồng, độ tuổi cao không khó có thể nghiên cứu, xét duyệt hồ sơ cho ứng viên.
Hoạt động đào tạo và NCKH là một lĩnh vực riêng, mang tính sáng tạo và học thuật cao, rất cần có "khoảng trời riêng" cho hoạt động chuyên môn, cho công tác tổ chức và nhân sự, tài chính và đầu tư và các vấn đề có liên quan khác.
Sẽ là "đầu ngô mình sở" nếu mang các qui định và chuẩn mực của các cơ quan hành chính, cơ quan quản lý nhà nước lại được mang áp dụng vào tổ chức và hoạt động của một tổ chức tư vấn học thuật, thuần túy về chuyên môn như HĐGS các cấp.
Những chuyện như quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý, tuổi đảm nhiệm cương vị lãnh đạo quản lý (đặc biệt là các vị trong thường trực HĐGSNN như chủ tịch, phó chủ tịch, tổng thư ký) phải lấy năng suất khoa học, uy tín chuyên môn, tầm ảnh hưởng, sức khỏe về thể chất và tinh thần, phẩm chất đạo đức... làm trọng.
Không nên dùng tuổi lãnh đạo, quản lý được qui định trong Luật Lao động để "cưa đều" mọi người, ai cũng như ai, vừa không biện chứng, vừa không thực tế, vừa không phù hợp với thông lệ quốc tế, vì đã khiên cưỡng hành chính hóa một tổ chức tư vấn học thuật, mà nên áp dụng qui định tuổi quản lý cho các nhà khoa học theo tinh thần của Nghị định 141/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ như đã được áp dụng cho các nhiệm kỳ trước của Hội đồng, và đã được xã hội và cộng đồng các nhà KH đồng thuận và ủng hộ.
Thực hiện điều đó chính là góp phần cho việc hiện thực hóa Khoản 7 Điều 12 về Chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học trong Luật GD ĐH (sửa đổi, bổ sung) vừa được Quốc hội thông qua ngày 19/11 vừa qua và sẽ có hiệu lực pháp lý từ ngày 01/7/2019 sắp tới.
Xã hội và cộng đồng khoa học cũng đang mong đợi sự ra đời của HĐGSNN nhiệm kỳ 2019-2023; vì trên thực tế, Hội đồng nhiệm kỳ 2014-2019 (được thành lập theo tinh thần của QĐ174 của Thủ tướng Chính phủ) đã không còn tồn tại do không còn phù hợp với các điều kiện và tiêu chuẩn đã được Chính phủ qui định trong QĐ37.
Tôi cũng đang có tiên đoán rằng, chỉ cần Thủ tướng Chính phủ công bố danh sách Thường trực HĐGSNN là giới khoa học sẽ rào rào mở máy tính (thời đại 4.0 mà) "search" vào google scholar, sciencedirect, ISI, Scopus hay researchgate để biết các vị đức cao vọng trọng này là ai rồi, có muốn "trốn" cũng không thể.
Xin trân trọng cám ơn Giáo sư!
Hồng Hạnh
Theo Dân trí
Còn tới 13.000 giảng viên đại học có trình độ đại học Hiện nay, cả nước còn khoảng 13.000 giảng viên trình độ đại học nhưng vẫn tham gia giảng dạy đại học dẫn đến tình trạng "cơm chấm cơm", chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Ảnh minh họa Đó là thống kê của Bộ GD&ĐT khi khảo sát về chuẩn...