Không ‘chính quy’ hay ‘tại chức’, thông lệ quốc tế nào?
Câu thần chú ‘thông lệ quốc tế’ biện minh cho dự định không ghi hệ đào tạo tại chức hay chính quy trên bằng đại học.
Khác với niềm lạc quan của các vị lãnh đạo ngành giáo dục, dự thảo Thông tư quy định chi tiết nội dung chính ghi trên văn bằng giáo dục đại học, trong đó quy định không còn ghi bằng chính quy hay tại chức, mà chỉ theo từng trình độ đào tạo ( bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ) đang khiến dư luận nghi hoặc, lo ngại.
Dù các nhà quản lý giáo dục đã kịp thời bổ sung rằng, ngoài tấm bằng chính thức, sẽ có một phụ lục đi kèm, trong đó ghi rõ các thông tin không thể hiện trên bằng như hệ đào tạo, xếp loại… Thế nhưng, cứ từ bụng ta suy ra bụng người, khi tấm bằng cử nhân được coi như giấy thông hành gõ cửa các đơn vị tuyển dụng, phụ lục trên trong nhiều lúc, ở nhiều nơi sẽ không mang quá nhiều ý nghĩa.
Chất lượng đào tạo đại học Việt Nam chưa đạt ‘thông lệ quốc tế’.
Viện dẫn thông lệ quốc tế không đủ sức thuyết phục. Quan niệm không mấy tích cực về hệ đào tạo ‘chuyên tu, tại chức’ sẽ không vì những chủ trương, biện pháp để đẩy chất lượng đào tạo hệ tại chức đi lên bằng cách áp chuẩn tương đương với hệ đào tạo chính quy từ việc tuyển sinh đầu vào đến các bài kiểm tra, bài thi, các môn học… mà thay đổi. Điều này rất dễ hiểu bởi nếu có đủ thời gian và năng lực, chắc hẳn họ không chọn hệ tại chức, vốn đòi hỏi chi phí học tập, thời gian học lớn hơn nhiều.
Trong khi đó, khó trông chờ vào “những người học siêu nhân”: sáng đi làm, hoàn thành nhiệm vụ, tối đi học với chương trình ngang các cháu tuổi mười tám đôi mươi, lại thêm gánh nặng ‘vợ bìu, con ríu’ đạt được trình độ ngang với hệ đào tạo chính quy. Tất nhiên vẫn có những trường hợp hi hữu, thế nhưng không thể dựa vào đó mà đi đến ngộ nhận chất lượng đào tạo ở hai hệ đã đồng đều.
Mặt khác, cũng chính đáng không kém khi đặt câu hỏi ngược lại. Nếu thật sự giá trị của hai tấm bằng như nhau thì tại sao phải xóa đi chữ ‘chính quy’, ‘tại chức’, vốn chỉ đơn giản như tấm thẻ ghi… địa chỉ? Và không thể lập lờ một sự thật không thể chối cãi, chỉ có Việt Nam, với một giai đoạn phát triển hết sức đặc thù, mới mở ra hệ đào tạo tại chức để nâng cao nghiệp vụ cho những cán bộ, công chức thời kỳ đầu thiếu cả kiến thức lẫn kinh nghiệm. Như vậy, áp dụng ‘thông lệ quốc tế’ đã lệch chuẩn ngay từ vạch xuất phát.
Xét kỹ về vấn đề chất lượng, sự xuất hiện ào ạt của các trường đại học ngoài công lập, từng được ví như nấm sau mưa, dẫn đến tình trạng chỉ đạt 9-10 điểm/3 môn thi cũng đã đỗ đại học mà có khoa vẫn không tuyển đủ chỉ tiêu. Vậy ai sẽ lựa chọn làm học viên tại chức và mức xét tuyển của hệ tại chức sẽ như thế nào? Nếu dám khẳng định, đầu vào không quan trọng, các vị quản lý ngành giáo dục khó có thể thuyết phục nổi ai.
Video đang HOT
Tất nhiên, sẽ vẫn là những tranh luận không hồi kết nếu không dựa vào căn cứ có sức thuyết phục hơn cả: thị trường tuyển dụng. Đầu tiên, xin xem xét khu vực ngoài nhà nước. Ở đây đã xuất hiện xu hướng tuyển dụng thực dụng, nghĩa là bằng cấp tương ứng với vị trí công việc. Nôm na, doanh nghiệp không cần tuyển một thủ quỹ hay kế toán có bằng thạc sĩ.
Cụ thể hơn nữa, việc cử nhân phải giấu bằng để xin đi làm công nhân thể hiện một thực tế là doanh nghiệp ngại tuyển dụng người có bằng cấp cao cho những vị trí lao động phổ thông, đơn giản, vì sợ nhân sự nhảy việc, phí công đào tạo.
Thậm chí, đã có những doanh nghiệp mạnh dạn tuyển dụng những vị trí nhân sự chủ chốt, đãi ngộ hấp dẫn mà không cần có bằng cấp ở lĩnh vực liên quan. Thước đo chỉ là hiệu quả và chắc chắn họ không chọn người chỉ để lấp đủ số ghế trống.
Tiếp cận theo cách này, khó có thể xảy ra một cuộc phổ cập bằng tại chức cho những người nhắm đến những công việc thuộc khu vực ngoài nhà nước. Thứ nhất, tấm bằng không thể là giấy thông hành vạn năng để xin việc. Thứ hai, năng lực tài chính của đại đa phần người dân khó có thể kham nổi mức chi phí của hệ đào tạo này, và dù có ‘chuộng bằng cấp tới đâu’, không ai bỏ tiền ra đi học, rồi tấm bằng chỉ dùng để… trưng như giấy khen học sinh giỏi.
Ở khu vực nhà nước, câu chuyện lại được nhìn nhận khác hẳn. Phát biểu mới đây của ĐBQH Lưu Bình Nhưỡng trong buổi họp thảo luận các vấn đề của Luật Lao động (sửa đổi) sắp trình Quốc hội rằng, ‘nhiều cán bộ nhàn nhã quá’ đã không gây thêm sự bất ngờ nào, vì với thành tích tinh giản biên chế đạt được, vấn nạn công chức, viên chức ’sáng cắp ô đi, tối cắp ô về’ đương nhiên chưa được dẹp hết.
Thêm nữa, như các chuyên gia và các vị ĐBQH vẫn luôn thẳng thắn, phép màu ‘vừng ơi, mở ra’ với cánh cổng vào các cơ quan nhà nước vẫn hiệu nghiệm hơn với các nhân sự thuộc công thức 5C. Từ đó có thể suy ra, đối với một bộ phận công chức, viên chức, năng lực không cần là yếu tố hàng đầu. Đầu tiên phải là… đủ tiêu chuẩn, đồng nghĩa, đủ bằng cấp. Đặc biệt, khi nỗi ngần ngại về chữ tại chức trên văn bằng tốt nghiệp được dẹp bỏ, nhóm đối tượng này sẽ hoàn toàn tự tin với một bộ hồ sơ không tì vết, đúng quy trình.
Xét trong mối tương quan với một chủ trương khác, dự định áp dụng ở quy mô nhỏ hơn, cũng căn cứ vào thông lệ quốc tế là việc cho phép sinh viên học thẳng lên thạc sĩ, bức tranh không mấy sáng sủa lại càng hiện rõ. Khi việc trả lương theo vị trí công việc, không theo thâm niên và bằng cấp chưa được áp dụng đại trà, rất dễ mường tượng, một phần đóng thuế của người dân sẽ dùng để trả cho những anh chị thạc sĩ, tiến sĩ chuyên viên phòng hành chính với ngạch bậc cao chót vót. Nỗi tréo ngoe 9 người dân gánh một cán bộ, vì thế sẽ càng thêm… ngang trái.
Điểm lạc quan nhất, nếu cố gắng đãi cát tìm vàng, là một sự tương thân tương ái hiếm có giữa công chức ngành giáo dục với các đồng nghiệp tương lai. ‘Gái có công, chồng chẳng phụ’, đã thế họ cũng là nguồn thu thường xuyên và ổn định cho các trường đại học. Việc ‘tự chủ’ của các cơ sở đào tạo này sẽ phần nào dễ dàng hơn, còn hệ lụy quản lý thì cứ hạ hồi phân giải.
Dẫu vậy, cũng không thể mau mắn phủ nhận những cáo buộc có phần tiêu cực, các nhà quản lý đang… lạc đề. Rộng cửa cho hệ tại chức, xóa nhòa các ‘chỉ tiêu kỹ thuật’ về đầu ra của cử nhân… dẫu có được dư luận chấp nhận, cũng không thể giải quyết được điều mà xã hội kỳ vọng hơn: chất lượng đào tạo. Tiêu chuẩn quốc tế cần thiết biết nhường nào áp dụng trong việc đo đếm chất lượng, nhưng tiếc thay, trong trường hợp này, lại bị ngó lơ.
Hãy mở rộng đôi tai, lắng nghe cho rõ ràng hơn điệp khúc đáng buồn, sinh viên ra trường phải đào tạo lại. Dù từ khía cạnh người đào tạo hay người tuyển dụng, thay đổi đầu tiên phải bắt đầu từ chính những vị công bộc đang nhận trọng trách chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
Khánh Nguyên
Theo baodatviet
Từ tháng 7, không còn phân biệt bằng đại học chính quy và tại chức
Từ ngày 1.7, luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật Giáo dục đại học (được Quốc hội thông qua vào tháng 11.2018) sẽ có hiệu lực thi hành với nhiều thay đổi lớn ảnh hưởng đến hoạt động của các trường.
Luật Giáo dục ĐH sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1.7 không phân biệt về giá trị văn bằng các hình thức đào tạo khác nhau - HÀ ÁNH
Cấp bằng theo trình độ, không phân biệt hình thức đào tạo
Theo quy định trong luật Giáo dục ĐH sửa đổi (gọi tắt là luật GDĐH 2018), loại hình đào tạo chính quy là tập trung toàn thời gian, còn các hình thức đào tạo vừa làm vừa học, học từ xa là không tập trung. Căn cứ vào các loại hình đào tạo này, cơ sở GDĐH được tự chủ quyết định hình thức, phương thức tổ chức và quản lý đào tạo phù hợp với từng loại hình và trình độ đào tạo của GDĐH. Tất cả các yêu cầu về nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, chuẩn kiến thức kỹ năng, kiểm tra đánh giá, chuẩn đầu ra... của các chương trình đào tạo cho dù được thực hiện theo loại hình nào đều phải đảm bảo chất lượng như nhau.
Vì vậy, luật GDĐH 2018 quy định "văn bằng GDĐH thuộc hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ và văn bằng trình độ tương đương" và "người học hoàn thành chương trình đào tạo, đạt chuẩn đầu ra của trình độ đào tạo theo quy định, hoàn thành các nghĩa vụ, trách nhiệm của người học thì được hiệu trưởng cơ sở GDĐH cấp văn bằng ở trình độ đào tạo tương ứng". Theo bà Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ GDĐH, Bộ GD-ĐT, khác biệt giữa các loại hình đào tạo chỉ là về thời gian đào tạo và kỹ thuật tổ chức, quản lý đào tạo. Bởi vậy, luật quy định không phân biệt về giá trị văn bằng các hình thức đào tạo khác nhau.
Tự chủ theo năng lực
Trong luật GDĐH 2018 quy định rõ điều kiện, yêu cầu thực hiện quyền tự chủ (tại khoản 2 điều 32). Theo đó, mức độ tự chủ của cơ sở GDĐH phụ thuộc vào việc đáp ứng đủ điều kiện tự chủ. Những cơ sở chưa đáp ứng được thì tiếp tục chịu sự quản lý chặt chẽ theo các quy định của luật. Đồng thời, luật cũng quy định trách nhiệm quản lý nhà nước trong quy hoạch và xác nhận tiêu chí các cơ sở GDĐH, do đó sẽ giới hạn việc các trường đồng loạt tự chủ dẫn đến mất cân bằng cung - cầu nhân lực. Luật còn quy định rõ các quyền tự chủ về học thuật trong hoạt động chuyên môn, tổ chức - nhân sự và tài chính - tài sản.
Chẳng hạn, luật quy định cơ sở GDĐH được quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn bao gồm ban hành, tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn chất lượng, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học và công nghệ, hợp tác trong và ngoài nước phù hợp với các quy định của pháp luật. Được quyền tự chủ trong tổ chức và nhân sự bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về cơ cấu tổ chức, cơ cấu lao động, danh mục, tiêu chuẩn, chế độ của từng vị trí việc làm; tuyển dụng, sử dụng và cho thôi việc đối với giảng viên, viên chức và người lao động khác, quyết định nhân sự quản trị, quản lý trong cơ sở GDĐH phù hợp với quy định của pháp luật. Được quyền tự chủ trong tài chính và tài sản bao gồm ban hành và tổ chức thực hiện các quy định nội bộ về các nguồn thu, quản lý và sử dụng các nguồn tài chính, tài sản; thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển; chính sách học phí, học bổng cho sinh viên và các chính sách khác phù hợp với quy định của pháp luật. Luật cũng cụ thể hóa các nội dung này tại các điều, khoản tương ứng trong luật.
Luật GDĐH 2018 mở rộng quyền tự chủ, cho phép các cơ sở GDĐH đáp ứng đủ điều kiện bảo đảm chất lượng và phù hợp nhu cầu thì được tự mở ngành đào tạo ở tất cả các trình độ của GDĐH, chỉ trừ các ngành thuộc lĩnh vực sức khỏe, đào tạo giáo viên và an ninh, quốc phòng.
Tăng quyền lực cho hội đồng trường
Theo luật GDĐH 2018, các quy định cụ thể về số lượng, cơ cấu thành viên; việc bổ sung, thay thế thành viên hội đồng trường... sẽ nằm trong nội dung quy chếvà hoạt động của nhà trường, chứ không phải do nhà nước quy định.
Các quy định trong luật được đặt ra theo xu thế tăng cường tự chủ và để khuyến khích sự năng động, sáng tạo của các đơn vị, luật không can thiệp vào chi tiết (như quy định tiêu chuẩn, điều kiện của từng thành viên hội đồng trường hay việc giới thiệu, ứng cử, bầu thành viên ngoài trường vào trong hội đồng trường) mà để cơ sở GDĐH tự điều chỉnh trong quy chế tổ chức và hoạt động của mình. Tuy nhiên, luật có quy định thành viên đương nhiên trong hội đồng trường là đại diện BCH Đoàn TNCS HCM, và xác định rõ đại diện này phải là người học nhằm một mặt bảo đảm được tính định hướng tư tưởng, mặt khác vẫn bảo đảm có tiếng nói đại diện cho người học trong hội đồng trường.
Về tỷ lệ thành viên hội đồng là người ngoài trường, luật GDĐH 2012 đã quy định tối thiểu là 20%, còn luật GDĐH 2018 quy định là 30%. Bà Phụng phân tích: "Ý nghĩa việc tham gia hội đồng của thành viên bên ngoài trường là nhằm gắn kết các quyết sách của nhà trường với cuộc sống bên ngoài, nhu cầu xã hội đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy tỷ lệ này ở các quốc gia có nền giáo dục phát triển là rất lớn, thậm chí trên 50%. Nhằm triển khai quan điểm gắn nhà trường đại học với xã hội, luật không khống chế số lượng thành viên bên ngoài mà để cho nhà trường tự quyết định".
Chủ tịch hội đồng trường không nhất thiết phải là tiến sĩ
Luật GDĐH 2018 đã quy định chi tiết tiêu chuẩn của chủ tịch hội đồng trường theo quan điểm xem đây thực chất là chức danh quản trị, đòi hỏi phải có uy tín cả trong và ngoài trường nhưng không nhất thiết phải có học vị tiến sĩ, có uy tín khoa học như đối với hiệu trưởng. Bên cạnh đó, để tăng cường tự chủ, luật quy định trao rất nhiều quyền hạn, trách nhiệm cho hội đồng trường. Do vậy, chủ tịch hội đồng trường cần phải làm việc chuyên trách, toàn thời gian thì mới có thể đảm nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, chức năng của mình.
Theo Thanh niên
Không ghi hình thức đào tạo, xếp loại trên văn bằng đại học: Không khác so với thế giới Theo TS Phạm Thị Tuyết Nhung - Giảng viên Đại học Huế, dự thảo quy định không ghi hình thức đào tạo và xếp loại trên văn bằng đại học không khác so với các nước trên thế giới. Ảnh minh họa/ INT Từng có thời gian làm nghiên cứu sinh về lĩnh vực kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng...