Khó khăn với thang điểm 4 ở trường ĐH
So với thang điểm 10, thang điểm chữ khá “rộng rãi” đối với sinh viên giỏi nhưng lại rất “hà khắc” với sinh viên yếu.
Thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ là một yêu cầu khách quan của quá trình đổi mới giáo dục và đào tạo theo hướng hiện đại nhằm nâng cao chất lượng đào tạo bậc ĐH, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, bắt kịp với trình độ phát triển của thế giới. Trong lộ trình thực hiện đào tạo theo học chế tín chỉ gặp không ít khó khăn, nhiều trường đã có cách làm sáng tạo và đạt được những kết quả đáng ghi nhận.
Thang điểm “hà khắc” với sinh viên yếu
Khi tiến hành đào tạo theo hệ thống tín chỉ, vấn đề mà các trường lo ngại là việc thay đổi hình thức cho điểm sẽ dẫn đến tình trạng số lượng sinh viên bị đình chỉ gia tăng đột biến. Như hàng trăm sinh của ĐH Bách khoa Đà Nẵng, ĐH Huế và một số trường ĐH khác bị đuổi học vì nợ tín chỉ hoặc không đạt đủ điểm tích lũy một vài năm trước.
Là trường đầu tiên ở khu vực phía Bắc áp dụng đào tạo tín chỉ, trong một thời gian dài, mỗi khóa sinh viên của ĐH Xây dựng Hà Nội, sau 5 năm cũng chỉ tốt nghiệp được khoảng hơn 60% số còn lại tiếp tục ở lại để trả nốt tín chỉ.
Mới đây, PGS.TS Lê Hữu Lập, Giám đốc Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông trăn trở vì có đến trên 100 sinh viên, chủ yếu là năm nhất bị đuổi học do không đạt đủ điểm.
Trường CĐSP Hà Nội tiến hành so sánh bảng kết quả học tập của sinh viên lớp sư phạm Toán K36, học kỳ 1 năm học 2010-2011 theo cách tính niên chế (thang điểm 10) và cách tính tín chỉ (thang điểm 4). Cho thấy, nếu theo thang điểm 10 không có sinh viên nào bị tạm dừng tiến độ nhưng nếu dùng thang điểm 4 sẽ có tới 17 sinh viên bị tạm dừng, buộc thôi học.
Video đang HOT
Các tân sinh viên Học viện Công nghệ bưu chính viễn thông
Theo thạc sỹ Hoàng Hồng Liên – Trường CĐSP Hà Nội, cách tính điểm theo thang chữ khá phức tạp và có triết lý khác hẳn với cách tính theo thang điểm 10 quen thuộc. So với thang điểm 10, thang điểm chữ khá “rộng rãi” đối với sinh viên giỏi nhưng lại rất “hà khắc” với sinh viên yếu. Đây là một thang điểm “sạch”, cho phép đánh giá đầy đủ nhất chất lượng sinh viên. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu đào tạo tín chỉ, có thể cả nhà trường, sinh viên và xã hội còn chưa thích nghi.
Trường sáng tạo “cứu sinh viên”
Năm học 2011-2012, khắc phục tình trạng đó, đồng thời nhận định được quy chế 43 là quy chế thực hiện một cách mềm dẻo, phải luôn được điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với điều kiện của từng trường, phòng đào tạo trường CĐSP Hà Nội đã nghiên cứu, đề xuất việc thay đổi thang điểm đánh giá, phân nhỏ khoảng phân loại hơn, bổ sung các mức B , C , D , F để các mức quy đổi sang thang điểm 4 sẽ gần hơn với thang điểm 10. Như vậy, các khoảng phân loại vẫn nằm trong quy định của quy chế mà cải thiện được những bất cập đang tồn tại.
“Theo quy chế 43, xếp loại kết quả học tập không có mức trung bình khá, mức khá và trung bình sẽ rộng ra hơn. Chia nhỏ khoảng phân loại sẽ đánh giá sát hơn trình độ sinh viên. Nếu không chia nhỏ khoảng phân loại thì xảy ra điều vô lý là sinh viên A có điểm học phần 4,0 (nếu theo niên chế, sinh viên này bị thi lại) sẽ tương đương với sinh viên B có điểm học phần được 5,4, vì cả hai khi quy đổi đều đạt loại D và chuyển thang điểm 4 điều được 1 điểm” – thạc sỹ Hoàng Hồng Liên phân tích.
Trong khi đó, Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông lại có cách làm khác. Theo PGS.TS Lê Hữu Lập, Học viện là một trong những trường đầu tiên thiết kế một chương trình đào tạo theo tín chỉ, lấy người học làm trung tâm. Bài giảng của các thầy cô trên lớp chỉ là kiến thức cơ bản, mang tính chất gợi mở, chú trọng phát huy tinh thần chủ động, tự học của sinh viên. Điều thực sự khác biệt là sau khoảng 6 đến 8 tiết sẽ có 2 tiết kiểm tra, chữa bài tập mẫu, khiến sinh viên phải tự học, làm bài tập, không thể lơ là. Cũng theo PGS.TS Lê Hữu Lập, nếu lớp lý thuyết thường đông, có thể lên tới trăm sinh viên thì lớp bài tập chỉ rất ít sinh viên, từ đó tăng hiệu quả học tập. “Cách làm này sẽ được Học viện áp dụng bắt đầu từ năm nay, hy vọng sẽ hạn chế được tối đa số sinh viên bị đình chỉ” – PGS.TS Lê Hữu Lập cho hay.
Theo GD&TĐ
Những sinh viên không thể ra trường
Học khá, điểm thi đầu vào cao nhưng không có nghĩa là dễ dàng tốt nghiệp đại học nếu không học tập nghiêm túc. Nhiều sinh viên đã ngậm ngùi rời giảng đường.
Theo thống kê của nhiều trường ĐH, dù đã chuyển đổi sang hình thức đào tạo tín chỉ nên sinh viên (SV) có thể tốt nghiệp chậm nhưng qua những đợt xét tốt nghiệp hằng năm, có hàng trăm SV không thể ra trường do nợ quá nhiều môn học.
Niềm vui trong lễ tốt nghiệp của SV Trường ĐH Tự nhiên TPHCM. Để có niềm vui ấy, họ đã cố gắng học tập trong những năm ngồi trên ghế giảng đường. (Ảnh: Tấn Thạnh)
Giỏi, chưa chắc được tốt nghiệp
T.L.M, SV Khoa Báo chí Trường ĐH KHXH-NV TPHCM, theo đúng hạn phải ra trường từ năm 2008. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, bằng tốt nghiệp của M. vẫn treo lơ lửng bởi M. còn nợ một môn chuyên ngành. Một giảng viên Khoa Báo chí - Truyền thông của trường, cho biết: "Nếu đúng nguyên tắc thì SV này đã bị hủy kết quả học tập. Tuy nhiên, xét đến hoàn cảnh thì việc giải quyết linh hoạt bằng hình thức chuyển loại hình đào tạo từ chính quy sang tại chức thì có thể". Theo vị giảng viên này, từ năm 2006 trở về trước (năm trường đào tạo theo hệ niên chế), mỗi năm có không dưới 5 SV khoa này không thể tốt nghiệp.
Một trường hợp khác là G.A, cũng là SV khoa báo chí với điểm thi đầu vào khá cao (20,5 điểm) . Quá trình học tập năm đầu của G.A được giáo viên đánh giá tốt, bạn bè ngưỡng mộ thông qua những bài viết cộng tác trên các báo nhưng cũng từ đó, SV này bỏ bê học tập bắt đầu bằng việc không đến lớp, bỏ thi. Đến năm thứ 3 thì G.A không thể theo được nữa, bởi số môn học còn nợ quá nhiều. SV khoa báo chí vẫn nhắc đến "huyền thoại" G.A "nhầy" vì bắt gặp G.A trong những tiệm game online, những cuộc nhậu thâu đêm và đi bụi.
Học giỏi và mê đua xe mô hình là những gì SV Khoa Công nghệ thông tin Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM nhắc đến P.C.H. Dù nổi tiếng với phần mềm được giải thưởng cấp TP nhưng H. cũng không thể tốt nghiệp do ham làm... quên học. H. cho biết: "Ngày đó có một môn giảng viên tính điểm thông qua 2 lần kiểm tra, lần giữa kỳ và cuối kỳ. Tôi bỏ học nhiều nên mất hẳn phần điểm giữa kỳ. Thi cuối kỳ dù có cao thế nào cũng không đủ điểm tổng kết và thi lại hoài không được".
"Phao" tín chỉ vẫn không thoát
Th.S Nguyễn Nguyễn Anh Đức, Trưởng Phòng Công tác HS-SV Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TPHCM, cho biết: "Trong đợt xét tốt nghiệp vào ngày 30-8 vừa qua, có khoảng 28 SV không đủ điều kiện, những SV này nếu có nguyện vọng sẽ được chuyển hình thức đào tạo sang hệ tại chức, áp dụng theo Quy chế 43, cho đến khi nào trả nợ hết môn thì được cấp bằng tốt nghiệp. Nguyên nhân do SV vừa đi học vừa đi làm nên không theo kịp chương trình".
Được chuyển loại hình đào tạo từ chính quy sang tại chức có thể xem là cái "phao" cứu nhiều SV thoát khỏi "cửa tử". Tuy vậy, không phải SV nào cũng muốn được chuyển. TS Phạm Tấn Hạ, Trưởng Phòng Đào tạo Trường ĐH KHXH-NV TPHCM, cho rằng khi đi học thì người học đã xác định mục đích, động cơ nên nếu không như mong muốn thì họ bỏ hoặc sẽ chuyển sang học trường khác chứ ít SV muốn chuyển qua hệ tại chức.
Lãnh đạo một trường ĐH thừa nhận việc chuyển đổi loại hình đào tạo vừa là ưu cũng là nhược điểm của hệ đào tạo tín chỉ. Có nghĩa là dù thế nào SV cũng có thể tốt nghiệp nhưng làm cho chất lượng đầu ra bị thả nổi. Thêm thông tin gần đây nhiều địa phương nói không với hệ tại chức đã khiến không ít SV hoang mang.
Tại Trường ĐH Nông Lâm TPHCM, ThS Trần Đình Lý, Trưởng Phòng Đào tạo, cho biết: "Số lượng SV bị buộc thôi học do quá thời gian đào tạo tại trường chủ yếu rơi vào SV hệ vừa làm vừa học (mỗi năm khoảng 15-20 SV/năm),một số khác là SV hệ CĐ chính quy (khoảng 8-10 SV). Nguyên nhân chủ yếu là SV không thể tiếp tục theo học do áp lực công việc. Một số trường hợp SV làm việc trong các công ty, đơn vị không đòi hỏi bằng cấp nên sao nhãng việc học".
Theo TS Nguyễn Kim Quang, Trưởng Phòng Đào tạo Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM: "Mặc dù hình thức đào tạo theo tín chỉ đã mở lối cho nhiều SV có điều kiện tốt nghiệp hơn hệ niên chế, dù chậm. Tuy nhiên, mỗi năm tại trường vẫn có một lượng không nhỏ SV "rơi rụng". Trong đó có trường hợp bị phân tâm do hoàn cảnh mà SV muốn chuyển đổi ngành nghề có SV vừa học vừa làm nên không có thời gian học. Nhiều SV rơi vào trạng thái vỡ mộng khi lý tưởng về ngành học một đằng còn thực tế lại khác. Cũng có SV hoang mang do sự biến động ngành nghề. Ví dụ có năm nghề đó "hot", năm sau không còn hoặc bị bão hòa nên SV lo lắng về việc làm. Điều đó cho thấy công tác hướng nghiệp ở bậc phổ thông là hết sức cần thiết".
Lãng phí Ở góc độ tâm lý, TS Võ Văn Nam, Trường ĐH Sư phạm TPHCM, cho rằng môi trường học tập đối với SV là cực kỳ quan trọng. "Niềm hứng thú với học tập là yếu tố quyết định chất lượng đầu ra của SV. Nếu có đam mê thì mới không chán học, kích thích SV tìm tòi, sáng tạo, nghiên cứu khoa học. Ngược lại, nếu không hứng thú, rơi vào tình trạng vỡ mộng vì học sai ngành thì rất nguy hiểm. Chỉ có hướng nghiệp đúng đắn, định hướng nghề nghiệp dựa trên năng lực, sở thích, tiềm năng của bản thân thì mới giải quyết căn bản được tình trạng SV chán học. TS Lê Thị Thanh Mai, Trưởng Ban Công tác SV - ĐH Quốc gia TPHCM, cho biết: Việc SV phải chọn nguyện vọng 2 để vào ĐH cũng nói lên mong ước của SV đã phải "hạ chuẩn" nên niềm say mê, hứng thú ngành học, trường học cũng giảm đi một bậc, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập. Tình trạng nhiều SV không thể ra trường không chỉ gây lãng phí cho nhà trường mà còn cho xã hội.
Theo Đặng Trinh
Người Lao Động
SV trường ĐH KHXH&NV Hà Nội cũng khoe đồng phục Không ngại khi đã là sinh viên rồi mà vẫn mặc đồng phục, các bạn sinh viên lớp K54A - Đại học KHXH&NV Hà Nội đã có cho mình một bộ đồng phục đến trường cực xinh. Năm học mới sắp bắt đầu, các bạn sinh viên cũng đã rũ sạch những dư âm của mùa hè ngọt ngào và lên dây cót...