Khó đổi mới khi lớp học vẫn nhồi 60 học sinh
GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng, không thể dạy học theo phương pháp tổ chức hoạt động, thực hành… nếu mỗi lớp vẫn chật cứng như hiện nay.
Biên soạn thử nghiệm sách giáo khoa 3 lớp
Cuối tuần qua, Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội (gọi tắt: Ủy ban) tổ chức hội nghị tham vấn ý kiến các chuyên gia về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa sau năm 2015. Cơ sở để lấy ý kiến là dự thảo đề án đổi mới chương trình – SGK và tờ trình đề nghị quốc hội ban hành nghị quyết mới nhằm thay thế Nghị quyết 40 được ban hành từ năm 2000.
Nhiều người hy vọng sẽ có nhiều bộ SGK để nhà trường, học sinh lựa chọn. Ảnh: Hồng Vĩnh
Đổi mới chương trình – SGK thôi chưa đủ
Là người đầu tiên có ý kiến tại hội nghị, PGS TS Trần Thị Tâm Đan, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban bày tỏ sự hồ nghi về tính hiệu quả của việc đổi mới chương trình – SGK khi mà dự thảo đề án của Bộ GD&ĐT không đề cập hướng triển khai thực tế.
Các yếu tố cấu thành chất lượng là đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất nhưng giải pháp nhằm khắc phục yếu kém liên quan tới hai yếu tố này không được nhắc tới cả trong dự thảo đề án và dự thảo nghị quyết của Quốc hội nhằm thay thế nghị quyết 40. Theo PGS Tâm Đan, để thực hiện được đề án đổi mới chương trình – SGK cần có hai đề án về giáo viên và cơ sở vật chất.
Chung quan điểm này còn có PGS TS Lê Kim Long, Hiệu trưởng ĐH Giáo dục (ĐH Quốc gia Hà Nội) và GS Nguyễn Minh Thuyết. Theo PGS Lê Kim Long, Bộ GD&ĐT cần có những đánh giá chính xác hơn về thực trạng triển khai chương trình – SGK hiện hành để tìm ra những giải pháp đúng đắn nhằm khắc phục yếu kém. Thực tế, những hạn chế trong dạy học đang diễn ra là yếu kém của “quá trình thực hiện chương trình” chứ không hẳn là yếu kém của bản thân chương trình.
Video đang HOT
GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng để thực hiện thành công chương trình, SGK, ít nhất phải có những điều kiện đảm bảo như cơ sở vật chất – trang thiết bị của các trường phải đạt chuẩn, giáo viên phải được đào tạo tốt.
“Giáo viên cũng không thể quan tâm đầy đủ đến học sinh nếu mỗi lớp vẫn nhồi chật cứng 50 – 60 học sinh như hiện nay”, GS Nguyễn Minh Thuyết nhận xét.
Một hay nhiều bộ SGK?
Nhiều chuyên gia bày tỏ lo ngại khi trong cả hai dự thảo không có điểm nào khẳng định xu hướng một chương trình nhiều bộ SGK mà dư luận mong ngóng chờ đợi trong suốt mấy năm qua.
GS TS Nguyễn Hữu Châu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam: “Có thể thấy trước ngay cả sau 2015 chúng ta cũng sẽ khó làm được những việc như vậy. Ví dụ làm sao có thể dạy tích hợp khi mà bây giờ chưa thấy có một động thái thay đổi nào ở các trường sư phạm? Làm sao có thể dạy học tự chọn khi các trường học chỉ có từng ấy phòng học và tình hình này chắc chắn khó được cải thiện trong vòng 10 năm tới?”.
“Đây là một quan điểm không mới ở nước ngoài nhưng mới với chúng ta. Dù được nêu ra từ những năm 2000, nhưng có lẽ đây là lần đầu tiên chúng ta dự định tuyên bố chính thức chủ trương này. Chúng tôi đề nghị Nhà nước chính thức hóa chủ trương này, công bố rộng rãi trên các phương tiện truyền thông để toàn dân, các cơ quan và những ai quan tâm biết, tránh gây xôn xao trong dư luận”, GS TS Hoàng Văn Vân, ĐH Quốc gia Hà Nội đề nghị.
Còn GS Nguyễn Minh Thuyết băn khoăn vì đề án này không rõ trong tương lai sẽ có một hay nhiều bộ SGK. Nếu có nhiều bộ SGK như yêu cầu của xã hội thì ngoài SGK do Bộ GD&ĐT trực tiếp tổ chức biên soạn, những bộ SGK do các tổ chức, cá nhân khác biên soạn sẽ được trình cho ai duyệt, thẩm định và dạy thử nghiệm vào lúc nào?
“Theo tôi, Đề án không thể xây dựng trên cơ sở giả thiết chỉ có một bộ SGK như từ trước đến nay. Thậm chí, việc xây dựng chương trình cũng nên có “khoảng trống” để tiếp thu sáng kiến của xã hội”, ông Thuyết nói.
5 năm đã phải thay chương trình?
Theo dự thảo đề án của Bộ GD&ĐT, do tốc độ phát triển quá nhanh của khoa học, kỹ thuật (trong đó có khoa học giáo dục) và sự biến đổi của đời sống, thời gian tồn tại của một chương trình giáo dục phổ thông ngày càng được rút ngắn, từ 10 năm cuối thế kỷ XX nay chỉ còn 5 – 6 năm, thậm chí ngắn hơn.
GS Nguyễn Minh Thuyết cho rằng, thông tin này chắc chắn sẽ làm nhiều người lo lắng, vì một đề án được chuẩn bị trong vòng 8 năm (2014 – 2022) với rất nhiều công sức và chi phí như đề án này mà chỉ tồn tại trong khoảng thời gian 5 – 6 năm thì rất lãng phí.
“Một nước còn nghèo như nước ta khó có thể liên tục thay đổi chương trình, SGK như vậy. Theo tôi, đề án cần đưa ra được giải pháp thiết kế chương trình, SGK mới thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng này”, GS Thuyết chia sẻ.
Còn GS Nguyễn Hữu Châu hồ nghi về tính xác thực của thông tin tuổi thọ một chương trình chỉ còn 5 – 6 năm. Trong bản đóng góp ý kiến gửi tới hội nghị, ông bày tỏ sự băn khoăn: “Không rõ thông tin đó lấy từ nguồn nào. Đây chỉ là cá biệt của một nước hoặc đối với chương trình của một vài môn học chứ nhất quyết không phải là xu thế chung của thế giới. Một chương trình chưa thực sự trải nghiệm ít nhất một vòng cho cả hệ thống 12 năm, mới chỉ được nửa hệ thống (5 – 6 năm) đã thay đổi, đó là chuyện cực kỳ vô lý”.
Theo VNE
Cốt yếu vẫn là đổi mới chương trình
"Chuyển từ quá trình giao duc chủ yếu truyền thụ kiến thức sang quá trình phát triển năng lực, phẩm chất của người học" là mục tiêu PGS Đỗ Ngọc Thống, thường trực ban soạn thảo đổi mới chương trình - sach giao khoa sau năm 2015, cho rằng mang tính cốt yếu.
Ông Đỗ Ngọc Thống - Ảnh: V.H
Trao đổi với Tuổi Trẻ, PGS Đỗ Ngọc Thống cho biết: "Việc chuyển từ quá trình chủ yếu truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất người học chi phối tất cả các khâu từ biên soạn nội dung chương trình tới tổ chức dạy học, áp dụng phương pháp dạy học mới, đổi mới kiểm tra, đánh giá, cách thức ra đề thi, cách thức tổ chức các kỳ thi lớn...
* Từ mục tiêu của đề án là "chuyển từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất", tới đây những công việc tiếp theo để hiện thực hóa mục tiêu này sẽ thế nào?
- Với hướng chú trọng phát triển năng lực, phẩm chất, nội dung chương trình - sách giáo khoa (SGK) sẽ không thể hàn lâm, cao siêu, xa rời thực tế đời sống. Nói như thế không có nghĩa chương trình - SGK sau năm 2015 sẽ dễ hơn, dẫn tới việc "hạ cấp trình độ phổ thông" so với hiện nay mà nội dung chương trình - SGK sẽ chỉ chọn lọc những kiến thức cơ bản nhất, tinh túy, gần gũi nhất với người học, với những gì diễn ra trong đời sống. Nhưng những kiến thức cơ bản, gần gũi đó phải đóng vai trò hình thành năng lực cho người học như năng lực tư duy, sáng tạo, năng lực giao tiếp, giải quyết vấn đề... Sẽ hạn chế tối đa việc đưa vào chương trình - SGK những kiến thức chưa cần thiết đối với người học ở bậc phổ thông.
Thay đổi kế tiếp là phương pháp dạy học, cách thức tổ chức dạy học. Trước đây, giáo viên phổ biến việc dạy theo kiểu truyền giảng, đọc - chép, nhưng với chương trình mới giáo viên buộc phải thay đổi cách dạy học. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở để học sinh tự tìm hiểu, tự giải quyết vấn đề để có được kiến thức... Quá trình đó sẽ hình thành năng lực cho người học như khả năng tư duy, khả năng tìm hiểu, thu thập tài liệu, khả năng phân tích, tổng hợp dữ liệu đã có, cách làm việc nhóm, cách trình bày hiểu biết của mình... Quá trình tự học, suy nghĩ, thảo luận, bày tỏ chính kiến cũng giúp học sinh có được những hiểu biết, tình cảm nhân văn, nhất là ở những bài học thuộc lĩnh vực xã hội. Bộ Giáo dục - đào tạo cũng đã nghiên cứu, triển khai thử nghiệm nhiều cách thức dạy học và sẽ áp dụng một cách linh hoạt, đa dạng ở chương trình mới.
Đề thi, cách thức kiểm tra, thi cử cũng sẽ thay đổi. Việc đánh giá học sinh sẽ diễn ra trong cả quá trình, tới thi hết môn, thi cuối cấp. Căn cứ đánh giá sẽ không chỉ là kết quả điểm thi, kiểm tra mà qua thái độ, ứng xử của học sinh trong quá trình học, làm việc nhóm, làm bài kiểm tra theo chuyên đề, làm thí nghiệm, thực hành trong hoạt động của tập thể. Thay đổi đánh giá, thi cử cũng thể hiện ở nội dung đề thi, đề kiểm tra không còn những câu học thuộc lòng thuần túy. Đề thi, kiểm tra sẽ không đòi hỏi học sinh nhớ được gì mà vận dụng được gì, làm được gì với những kiến thức đã có.
* Trong phần mục tiêu của đề án đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT có đưa ra mục tiêu "thực học, thực nghiệp", việc đẩy mạnh dạy học phân hóa ở bậc THPT có phải nhằm vào mục tiêu này không, thưa ông?
- Theo dự thảo thì lớp 11, 12 sẽ chỉ còn ba môn bắt buộc và ba môn tự chọn bắt buộc. Có nghĩa ngoài ba môn được quy định cứng, học sinh sẽ bắt buộc phải chọn ba môn trong số các môn học khác. Ngoài sáu môn học này, tùy theo nhu cầu, học sinh có thể chọn học thêm những chủ đề nâng cao khác nhau. Những chủ đề này học sinh có thể chọn học, có thể không chọn, có thể chọn nhiều chủ đề, có thể chỉ chọn một chủ đề. Những chủ đề nâng cao này được xây dựng trên cơ sở tham khảo yêu cầu đào tạo của các ngành, nghề hiện nay.
Ban soạn thảo đã đề nghị một số cơ sở đào tạo nghề nghiệp, các trường ĐH-CĐ gửi yêu cầu về kiến thức, kỹ năng đối với các ngành nghề đào tạo của họ để chúng tôi xây dựng chuyên đề nâng cao. Đây chính là cụ thể hóa mục tiêu "thực học, thực nghiệp". Người học ngoài kiến thức, kỹ năng cơ bản, sẽ chủ động chọn cho mình những chủ đề cần cho định hướng nghề nghiệp tương lai. Các trường ĐH-CĐ, dạy nghề sau này có thể tùy theo yêu cầu đặc thù của mình để đưa ra yêu cầu xét tuyển. Ví dụ lấy kết quả thi tốt nghiệp THPT, xét hồ sơ của học sinh ở bậc THPT (trong đó có kết quả đánh giá quá trình) hoặc có thể xét thêm kết quả học tập các chuyên đề nâng cao. Việc học các chuyên đề nâng cao cũng giúp học sinh có đủ năng lực để dự thi thêm kỳ tuyển sinh riêng của mỗi trường tự tổ chức sau này. Với hướng này, học sinh THPT sẽ không phải học quá chuyên sâu những kiến thức không cần cho nghề nghiệp của mình.
* Hiện nay theo phản ảnh của giáo giới, có quá nhiều quy định lạc hậu, cứng nhắc đang kìm hãm tính sáng tạo, chủ động và tâm huyết của nhà giáo. Cụ thể có nơi đưa ra tới 24 loại sổ sách nhà giáo phải chấp hành. Theo ông, để mục tiêu của đề án được đội ngũ nhà giáo thực hiện triệt để, cần phải làm gì để tháo gỡ cản trở nói trên?
- Đúng là hiện nay có những quy định lạc hậu, cứng nhắc, trong đó có cả những quy định của ngành và quy định do các địa phương tự đặt ra. Vì thế tới đây sẽ phải rà soát toàn bộ những quy định đã có, bỏ đi những gì lạc hậu, mang tính cản trở đổi mới. Tuy nhiên, nói tới việc này cũng phải nói thêm là trong giáo giới có một bộ phận thụ động, ngại đổi mới, thích "cầm tay chỉ việc" nên khi được áp dụng cơ chế tự do, sáng tạo hơn thì lúng túng, không biết làm thế nào. Vì thế thay đổi bất cập trên không chỉ từ các cấp quản lý mà còn cần từ chính giáo viên.
Không đợi đề án thông qua, ngay trong năm học này Bộ Giáo dục - đào tạo đã có những chỉ đạo nhằm khuyến khích sự sáng tạo, chủ động của thầy, cô giáo. Ví dụ cho phép các nhà trường tự xây dựng kế hoạch dạy học, cho phép thầy, cô giáo chủ động xây dựng kế hoạch dạy học và kết hợp các phương pháp dạy học của mình.
Theo Tuoitre
Đổi mới giáo dục không thể thiếu mô hình học tập cộng đồng Trung tâm học tập cộng đồng sẽ góp phần xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam và giúp người dân có cơ hội được học tập suốt đời. Trong thời gian tới, Bộ GD-ĐT sẽ đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) nhằm giúp người dân ở các địa phương khó khăn tiếp cận với các...