Khi giấc mơ tan vỡ: [Bài 3] Cuộc giải cứu thất bại
Quốc hội Mỹ đã thông qua Đạo luật Viện trợ, Cứu trợ và An ninh Kinh tế (CARES), trị giá 2.000 tỷ USD, trong đó dành 349 tỷ USD hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ.
Theo một báo cáo tháng 6 từ Cơ quan Quản lý Doanh nghiệp Nhỏ Hoa Kỳ (SBA), quy mô khoản vay PPP trung bình là 107.000 USD. Ảnh minh họa: USAToday.
Do số lượng người nộp đơn, Quốc hội nước này tiếp tục tăng gần gấp đôi số tiền đó, lên 670 tỷ USD.
Khoản tiền trên được thông qua Chương trình Vay vốn phục hồi thiệt hại kinh tế do thiên tai (EIDL) do Cơ quan Quản lý Doanh nghiệp Nhỏ (SBA) quản lý; và Chương trình Bảo vệ tiền lương (PPP) – khuyến khích các doanh nghiệp giữ chân nhân viên bằng cách chuyển vay thành trợ cấp.
Sai sót ngay từ đầu
Nhiều chủ doanh nghiệp nhỏ – đặc biệt là các doanh nghiệp mà chủ sở hữu là người thiểu số – cho biết họ đã bị từ chối cho vay dù chỉ vài nghìn USD, trong khi các doanh nghiệp lớn hơn như Los Angeles Lakers và Shake Shack được cho vay hàng triệu USD. (Đối mặt với phản ứng dữ dội của công chúng, một số doanh nghiệp lớn hơn này cuối cùng đã trả lại tiền).
Nhiều nhà kinh tế học ước tính mức suy giảm GDP của Hoa Kỳ từ 2019 đến 2020 vào khoảng 10-60%. Một khi đại dịch kết thúc, nhiều doanh nghiệp nhỏ sẽ phải đóng cửa vĩnh viễn và điều kiện thị trường kém sẽ khiến các doanh nghiệp nhỏ mới khó có chỗ đứng. Môi trường này có thể tạo ra sự phục hồi chậm chạp như thời kỳ Đại suy thoái.
Những người khác nói rằng số tiền cho vay mà họ nhận được là quá nhỏ để giúp đỡ. Và sự thiếu minh bạch trong chương trình đã dẫn đến những quan niệm sai lầm về những gì mà PPP được cho là sẽ đạt được ngay từ đầu.
Tranh cãi xung quanh PPP, hỗ trợ các doanh nghiệp có 500 nhân viên trở xuống, liên quan nhiều đến sự không kết nối giữa kế hoạch của chương trình và cách người Mỹ nghĩ về kinh doanh.
Mục tiêu thực sự của PPP là giữ cho người lao động Mỹ có biên chế, chứ không chỉ đơn giản là giữ cho các doanh nghiệp nhỏ tiếp tục hoạt động.
Và do đó, phần lớn số tiền được giải ngân cho các doanh nghiệp có nhiều nhân viên hơn, thay vì cho các doanh nghiệp nhỏ có nhân viên ít.
Video đang HOT
Đó là lý do tại sao một chương trình được nhiều người coi là nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp nhỏ dễ bị tổn thương nhất của Hoa Kỳ cuối cùng lại ưu tiên các doanh nghiệp không thực sự nhỏ.
Vào tháng 5, tổ chức thăm dò dư luận Data for Progress đã tiến hành một cuộc thăm dò trực tuyến 1.235 cử tri trong nỗ lực đánh giá nhận thức của công chúng về PPP và cảm nhận của người Mỹ về nó.
Khi được hỏi liệu tất cả các doanh nghiệp có nên nhận trợ giúp để giữ lương cho người lao động hay không, 70% người trả lời có. Với câu hỏi có nên giới hạn hỗ trợ ở các doanh nghiệp có 500 nhân viên hay không, 76% đồng ý.
Khi được hỏi mục tiêu của hỗ trợ liên bang đối với các doanh nghiệp là gì, 58% cho biết nên giữ lương cho người lao động, trong khi 24% nói rằng cần phải giữ cho các doanh nghiệp hoạt động – và điều đó giải thích, ít nhất một phần, tại sao chương trình thu hút sự tranh cãi.
Nhiều doanh nghiệp đã không thể hoàn thành cả hai mục tiêu này cùng một lúc, vì vậy họ không có được những gì cần thiết để sống sót qua đại dịch, đặc biệt là các công ty sở hữu độc quyền hoặc những công ty chỉ có một vài nhân viên.
Không công bằng?
Theo một báo cáo tháng 6 từ Cơ quan Quản lý Doanh nghiệp Nhỏ (SBA), quy mô khoản vay PPP trung bình là 107.000 USD và chính quyền tuyên bố chương trình đã hỗ trợ 51 triệu việc làm, với 84% tổng số người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ.
PPP được thiết kế để hoạt động trong hệ thống kinh tế hiện tại của Hoa Kỳ – một hệ thống vốn đã mất cân bằng với cộng đồng những người thiểu số.
KB Brown, điều hành chương trình Khuyến mại Wolfpack, một trong hai cửa hàng in duy nhất thuộc sở hữu của Người da đen ở Minnesota. “Công việc kinh doanh đã sụt giảm hơn 90% kể từ khi đại dịch bùng phát và tôi phải sa thải tất cả nhân viên”, Brown nói. “Vì vậy, hiện chỉ có vợ chồng tôi điều hành công ty”.
Brown đã cố gắng trong nhiều tháng để có được khoản vay 8.000 USD từ PPP, lần đầu tiên nộp đơn thông qua Wells Fargo và sau đó là Square. Ông ấy không gặp may. “Thật là nhảm nhí”, Brown nói. “Tôi không nghĩ rằng các khoản vay được thiết kế chính xác cho người thiểu số.”
Đánh giá của ông không sai: Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ do người da màu làm chủ đã hoàn toàn ngừng vay và một số người nhận được số tiền ít hơn mức họ yêu cầu.
Điều này đặc biệt đáng lo ngại vì cứ 10 doanh nghiệp nhỏ do người da đen làm chủ ở Mỹ thì có 4 không thể sống sót sau cuộc khủng hoảng hiện nay. Đại dịch đã ảnh hưởng nặng nề nhất đến các cộng đồng Da đen và da nâu ở Hoa Kỳ, về cả sức khỏe và tài chính.
Chính phủ ban đầu chống lại những lời kêu gọi về sự minh bạch hơn đối với những người đang nhận các khoản vay PPP, nói rằng thông tin này là “độc quyền” và “bí mật”. Hồi tháng 7, sau áp lực dữ dội của dư luận, chính quyền Trump phải nhượng bộ và công bố thông tin về gần 700.000 khoản vay PPP trị giá 150.000 USD hoặc cao hơn.
Trong số những người nhận hỗ trợ có cả các doanh nghiệp kết nối với con rể của Tổng thống Donald Trump, Jared Kushner, và thương hiệu thời trang của Kanye West, Yeezy.
Khẩn cấp hỗ trợ doanh nghiệp mùa COVID-19
Nếu không quyết liệt hỗ trợ ngay, khi cơn bão COVID-19 đi qua, các doanh nghiệp Việt vẫn có thể còn sống nhưng không thể đứng dậy được và buộc phải nhường luôn thị trường cho đối thủ ngoại.
Dịch bệnh đã gây sức ép nặng nề cho các công ty Việt Nam khiến nhiều đơn vị rơi vào tình trạng không còn dòng tiền hoạt động, thậm chí phá sản. Do đó, theo các chuyên gia, một chiến lược cứu doanh nghiệp (DN) cần được thực thi khẩn cấp, từ đó đem đến tác động lan tỏa tạo ra nhiều công ăn việc làm, đóng góp tốt cho ngân sách.
Chậm cấp cứu
Cuộc khảo sát lần thứ ba vừa được công bố của Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) đã chỉ ra một bức tranh không mấy sáng sủa cho các công ty Việt. "Làn sóng dịch bệnh lần thứ hai đặc biệt tác động rất lớn đến các DN" - Ban IV đánh giá.
Theo đó, khảo sát với hơn 400 DN và 15 hiệp hội ngành nghề cho thấy chỉ có 2% DN không bị ảnh hưởng bởi COVID-19, còn lại đều bị tác động theo các mức độ khác nhau. Đặc biệt là có đến 20% DN đã phải dừng hoạt động, 76% không cân đối được thu chi và 2% đã giải thể.
Bà Phạm Thị Ngọc Thủy, chuyên gia của Ban IV, cho biết thêm rất nhiều công ty trong cuộc khảo sát mới nhất nói rằng họ đã buộc phải cắt giảm giờ làm, tiền lương và lao động. Không chỉ vậy, điều đáng lo nhất trong hiện tại và những tháng tiếp theo là có đến 81% DN cho biết không có khách hàng, đơn hàng, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ; 72% DN lo ngại không biết lấy đâu ra tiền để đảm bảo tiền trả lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, kinh phí công đoàn; 53% DN khó khăn liên quan đến trả tiền vay ngân hàng cả gốc và lãi.
Trước khó khăn của cộng đồng DN, thời gian qua Chính phủ đã tung ra các gói hỗ trợ. Tuy nhiên, các gói này còn chậm đến tay DN hoặc chưa phát huy tối đa hiệu quả. Theo khảo sát của Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV vừa công bố cho thấy trong bốn gói hỗ trợ chỉ có gói tiền tệ - tín dụng và giảm tiền điện đạt kết quả khả quan, còn lại rất chậm và còn vướng mắc, cần sớm khắc phục.
Ví dụ gói 16.000 tỉ đồng cho vay hỗ trợ trả lương chưa giải ngân được. Nguyên nhân do điều kiện đặt ra còn chưa phù hợp, chưa sát thực tiễn; quy trình, thủ tục phức tạp, xử lý lâu khiến nhiều DN e ngại và nhiều công ty tự xoay xở.
Không chỉ vậy, một số hiệp hội phản ánh nhiều đơn vị thành viên thuê đất của Nhà nước đang phải chịu gánh nặng rất lớn. Nguyên nhân là do điều chỉnh chính sách và cách tính giá thuê đất khiến tiền thuê đất của Nhà nước năm 2020 tăng đột biến. Có những DN phải trả tiền thuê đất cao gấp 3-4 lần so với năm 2019.
Những ngành nghề chịu tác động tiêu cực mạnh nhất của dịch COVID-19 là du lịch, vận tải, dệt may, da giày, bán lẻ và GD&ĐT. Trong ảnh: Hàng loạt DN trả mặt bằng, đóng cửa. Ảnh: P.MINH
Hỗ trợ phải cụ thể, phù hợp thực tế
Các chuyên gia cho rằng cần phải có nhiều hơn nữa các biện pháp cấp bách, thiết thực cứu các DN nội địa. Nếu không làm ngay thì khi cơn bão COVID-19 đi qua, họ có thể còn sống nhưng không thể đứng dậy được và nhường luôn thị trường cho DN ngoại.
Ông Trương Gia Bình, Trưởng Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân, đề xuất các chính sách hỗ trợ DN cần được ưu tiên ban hành nhanh chóng với các điều kiện phù hợp thực tế. "Thay vì tập trung vào hỗ trợ DN kiệt quệ nên hướng đến giúp các đơn vị tiết giảm được dòng tiền chi ra. Qua đó để họ cân đối và sử dụng dòng vốn còn rất mỏng nhằm duy trì sản xuất, kinh doanh, giữ được người lao động và tái cấu trúc DN" - ông Bình nhấn mạnh.
Ngoài ra, ông Bình kiến nghị Nhà nước tiếp tục giảm mạnh các khoản tiền liên quan đến phí, lãi suất, thuế. Điển hình như các loại tiền bảo hiểm, tiền thuê đất, lãi vay ngân hàng, phí công đoàn... Qua đó để DN có thêm nguồn tiền hoạt động, người lao động có thu nhập đảm bảo để từ đó thực hiện các chính sách kích cầu tiêu dùng.
TS John Walsh, ĐH RMIT Việt Nam, nhận định đại bộ phận DN Việt Nam có quy mô nhỏ và rất nhỏ nên đang bị ảnh hưởng khá nặng nề. Lực lượng lao động rất lớn, đa phần là những người dễ bị tổn thương do thu nhập khiêm tốn lại đang làm việc cho loại hình DN nêu trên. Vì vậy, cần lưu ý hỗ trợ các DN này. Ngoài ra, sự hỗ trợ nên nhằm vào các lĩnh vực và ngành nghề cụ thể hứa hẹn khả năng phục hồi, phát triển nhanh chóng.
"Một số DN dựa vào xuất khẩu sẽ nằm trong danh mục này nhưng cần có sự tham vấn nhiều hơn với chính quyền địa phương, đại diện DN và người lao động. Từ đó để gói hỗ trợ phát huy hiệu quả tốt nhất" - ông khuyến nghị.
Những giải pháp cần làm ngay
Qua quan sát cách thức thiết kế và thực hiện các chính sách cũng như gói hỗ trợ của các nước, TS Cấn Văn Lực và nhóm tác giả Viện Đào tạo và nghiên cứu BIDV đưa ra một số kiến nghị đối với Việt Nam. Thứ nhất, Chính phủ cần tập trung tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ hiện tại, như đã được nhận diện trong thời gian qua.
Hai là Chính phủ cần sớm xây dựng một số chính sách, gói hỗ trợ bổ sung giai đoạn hai với quy mô đủ lớn và thời gian phù hợp có thể từ quý IV-2020 đến hết năm 2021 thì mới có thể giúp người dân, DN vượt khó. Các gói hỗ trợ giai đoạn hai có thể tương đương các gói giai đoạn một, khoảng 2,5% GDP.
Các công ty du lịch lao đao vì dịch, cần được hỗ trợ khẩn cấp. Ảnh: TÚ UYÊN
Thứ ba, các gói hỗ trợ cần đảm bảo độ bao phủ đến cả lao động không chính thức (tự do) vì đây là đối tượng dễ bị tổn thương nhất, đồng thời đến cả DN nhỏ và lớn vì cả hai đều chịu tác động tiêu cực.
Thứ tư, phải triển khai nhanh, gọn, đúng đối tượng, chuyển hỗ trợ bằng nhiều kênh khác nhau. Trong đó hết sức chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin như dịch vụ Mobile money, ví điện tử... thì mới đảm bảo chính sách nhân văn sớm đi vào cuộc sống. Đồng thời, cần đề xuất có cơ chế, phân quyền đặc thù cho Thủ tướng Chính phủ và Chính phủ để có thể ra quyết định nhanh chóng, kịp thời.
"Về điều kiện, tiêu chí DN nhận hỗ trợ, Chính phủ có thể căn cứ ít nhất vào năm tiêu chí chủ yếu, bao gồm: Tính lan tỏa, tức sự tác động tích cực tới các ngành, lĩnh vực khác; tạo nhiều công ăn việc làm; có khả năng áp dụng công nghệ và năng lượng sạch; có khả năng phục hồi và cam kết không sa thải nhân viên hoặc không quá 10%" - các chuyên gia của BIDV gợi ý.
Dịch COVID-19: Gỡ nút thắt thực thi trong triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam là một trong những quốc gia thành công nhất trong công tác chống dịch COVID-19, nhưng để có được kết quả đó, chúng ta đã phải đánh đổi bằng thiệt hại kinh tế không nhỏ. Rất nhiều cửa hàng, cửa tiệm phải đóng cửa, trả mặt bằng kinh doanh; nhiều doanh nghiệp đã tuyên bố phá sản hoặc ngừng hoạt động...