Khi doanh nghiệp FDI được ‘chăm sóc’
DN FDI là đối tượng khách hàng có vốn đầu tư lớn, công nghệ sản xuất hiện đại, năng lực cạnh tranh cao… nên việc nắm giữ thị phần của phân khúc khách hàng này là mục tiêu mà các NHTM Việt Nam đều đặt ra.
Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước từ đầu năm đến hết tháng 10/2015 đạt 272,4 tỷ USD, tăng 11% tương ứng tăng 26,9 tỷ USD so với 10 tháng năm 2014.
Trong đó, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của DN có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tính đến hết tháng 10/2015 đạt 173,31 tỷ USD, tăng 18,9% tương ứng tăng 27,6 tỷ USD so với 10 tháng năm 2014 và chiếm 63,6% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. DN FDI tiếp tục góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm cho người lao động…
Theo thói quen và cũng là để ủng hộ DN nước mình nên mối quan hệ trong kinh doanh giữa các DN từ cùng một quốc gia, vùng lãnh thổ thường rất khăng khít. Và việc sử dụng các dịch vụ tài chính- NH cũng không ngoại lệ. Thế nhưng hiện số các NH nước ngoài hiện diện ở Việt Nam chưa nhiều và mạng lưới hoạt động còn hạn chế. Vì thế đây chính là phân khúc khách hàng rất tiềm năng cho các NH nội. Trong bối cảnh Việt Nam đã và đang hội nhập với các nền kinh tế phát triển trên thế giới thông qua việc ký kết các hiệp định thương mại…
Sự “đổ bộ” của các DN FDI và cả các NH nước ngoài sắp tới sẽ càng khiến sự cạnh tranh tăng lên giữa các NH ở phân khúc khách hàng này. Chính vì thế, ngay lúc này NH Việt đã và đang có nhiều biện pháp tiến gần, tiến nhanh hơn đến đối tượng khách hàng tiềm năng này.
Trước đây, một số DN FDI còn e dè khi tiếp cận vốn của NH tại Việt Nam, vì cho rằng cơ chế, thủ tục còn rườm rà, chưa mang tính hỗ trợ. Nhưng đến nay, Chính phủ Việt Nam cũng như NHNN đã “cởi mở” hơn rất nhiều. Chính sách hỗ trợ về cơ chế, hành lang pháp lý, lãi suất… được các DN FDI đánh giá khá cao.
DN FDI phần lớn là các tập đoàn đa quốc gia, với nền tảng tài chính vững mạnh nên bản thân từ phía họ cũng có đòi hỏi cao ở dịch vụ, sản phẩm từ phía NH Việt Nam. Nắm bắt được xu hướng thị trường đó, nhiều NHTM tại Việt Nam đã có những bước đi tiên phong trong việc xúc tiến hợp tác, đưa ra các mô hình, sản phẩm, dịch vụ cũng như ưu đãi về lãi suất cho đối tượng DN này. Có thể kể tới như VietinBank, Vietcombank, BIDV, HDBank…
Video đang HOT
Theo ông Lê Đức Thọ, Tổng giám đốc VietinBank, để đáp ứng được xu thế hội nhập, thu hút các DN FDI, NH này đã tập trung nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ của nhân viên trong toàn hệ thống, thay đổi tư duy trong cách phục vụ đối với khách hàng DN FDI. Tính tới 30/9/2015, phân khúc DN FDI của VietinBank đạt tỷ lệ tăng trưởng dư nợ 33%; tỷ lệ tăng trưởng tiền gửi 16,5%; doanh số dịch vụ mua bán ngoại tệ tăng hơn 300% so với cuối năm 2014.
VietinBank cũng là NH đầu tiên tại Việt Nam triển khai Chương trình cho vay với bảo lãnh bằng Thư tín dụng dự phòng (Stand-by LC) do Japan Finance Corporation phát hành, giúp cho nhiều DNNVV Nhật Bản tiếp cận được với nguồn vốn VND.
Bên cạnh các sản phẩm truyền thống, các NHTM tại Việt Nam đều đang có xu hướng tiệm cận hơn với DN FDI bằng việc cung cấp các sản phẩm, giải pháp tài chính tổng thể, không ngừng xây dựng các gói tín dụng ưu đãi lãi suất dành riêng cho đối tượng khách hàng DN FDI như: VietinBank với gói tín dụng lên tới 20.000 tỷ đồng.
Vietcombank thì thành lập Bộ phận Phát triển khách hàng Nhật Bản (Japan – Desk) với chức năng cung cấp các sản phẩm, dịch vụ NH; tư vấn, hỗ trợ dành riêng cho các khách hàng DN Nhật Bản đang hoặc sẽ hoạt động tại Việt Nam. Vietcombank cũng đã ký kết thoả thuận hợp tác (MOU) với gần 60 NH địa phương Nhật Bản (JRBs), trở thành đối tác NH ưu tiên tại Việt Nam phục vụ các DN Nhật Bản là khách hàng của các JRBs này khi sang đầu tư tại Việt Nam.
Hay HDBank dành 500 tỷ đồng vốn ưu đãi cho vay trung hạn tín chấp đối với các DN FDI có nhu cầu vốn để sửa chữa, xây dựng mới nhà xưởng, máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu… với mức vay 70% chi phí theo phương án khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh trong vòng 8 tháng. Lãnh đạo HDBank nhấn mạnh, riêng đối với các DN FDI, nhiều năm qua HDBank luôn có sự đồng hành, hỗ trợ với nhiều chính sách ưu đãi về vốn vay với lãi suất hấp dẫn…
DN FDI là đối tượng khách hàng có vốn đầu tư lớn, công nghệ sản xuất hiện đại, năng lực cạnh tranh cao… nên việc nắm giữ thị phần của phân khúc khách hàng này là mục tiêu mà các NHTM Việt Nam đều đặt ra.
Ông Nguyễn An, Tổng giám đốc điều hành DongA Bank cho rằng, DN FDI càng mở rộng trên thị trường Việt Nam, thì cuộc cạnh tranh giữa các TCTD trong nước cũng như các chi nhánh NH nước ngoài tại Việt Nam để thu hút đối tượng khách hàng này chắc chắn sẽ ngày càng “sôi động” hơn. Và mỗi NHTM Việt Nam phải tự nâng cao năng lực của mình, thiết kế các giải pháp tài chính linh hoạt với mức phí thấp, hỗ trợ lãi suất… để tập trung phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu.
Theo Thời Báo Ngân Hàng
Nhập siêu bằng 2,5% kim ngạch xuất khẩu
Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 11 tháng năm nay, nước ta nhập siêu 3,8 tỉ USD, bằng 2,5% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Theo tính toán, tỉ lệ nhập siêu ước tính đạt kế hoạch dưới 5% so với kim ngạch xuất khẩu.
Riêng trong tháng 11, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 14,5 tỉ USD, tăng 5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 5,9 tỉ USD, tăng 5,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 8,6 tỉ USD, tăng 4,5%.
So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 11/2015 tăng 14,4%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 14,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14,3%.
Tính chung 11 tháng, kim ngạch hàng hoá nhập khẩu ước tính đạt 152,5 tỉ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 62,3 tỉ USD, tăng 8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 90,2 tỉ USD, tăng 18,1%.
Kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng phục vụ sản xuất, gia công, lắp ráp trong nước tiếp tục tăng cao: Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 25,3 tỉ USD, tăng 25,7% so với cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 21,6 tỉ USD, tăng 27,7%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 10,1 tỉ USD, tăng 29,7%; vải đạt 9,3 tỉ USD, tăng 8,3%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 4,6 tỉ USD, tăng 8%...
Đáng chú ý, kim ngạch nhập khẩu ô tô đạt 5,3 tỉ USD, tăng 60%, trong đó ô tô nguyên chiếc tăng 91% (ô tô dưới 9 chỗ ngồi tăng 46,1%). Một số mặt hàng nhập khẩu có kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước: Sắt thép đạt 6,8 tỉ USD, giảm 1%; chất dẻo đạt 5,4 tỉ USD, giảm 6,1%; xăng dầu đạt 4,8 tỉ USD, giảm 31,9%...
Sau 11 tháng, Việt Nam vẫn nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 45,1 tỉ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; từ Hàn Quốc đạt 25,6 tỉ USD, tăng 29,3%; từ ASEAN đạt 21,8 tì USD, tăng 4,5%...
Cán cân thương mại tháng 11 biến động trái chiều với ước tính nhập siêu 200 triệu USD (tháng 10 xuất siêu 500 triệu USD). Như vậy, tính chung 11 tháng, nước ta nhập siêu 3,8 tỉ USD, bằng 2,5% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 18,8 tỉ USD. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 15 tỉ USD.
Theo Tổng cục Thống kê, với giá dầu thô và một số mặt hàng nông sản giảm, kim ngạch xuất khẩu cả năm 2015 có thể không đạt kế hoạch đề ra (tăng 10%) nhưng tỉ lệ nhập siêu ước tính đạt kế hoạch dưới 5% so với kim ngạch xuất khẩu.
Xuất khẩu tiếp tục tăng
Tính riêng tháng 11, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 14,30 tỉ USD, giảm 0,1% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 4,18 tỉ USD, giảm 0,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 10,12 tỉ USD, tương đương kim ngạch xuất khẩu tháng trước. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 11/2015 tăng 7,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 9,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 7,3%.
Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 11 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 148,7 tỉ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 43,6 tỉ USD, giảm 2,6%.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 105,1 tỉ USD, tăng 13,5%. Kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực đạt khá cao so với cùng kỳ năm trước: Điện thoại các loại và linh kiện đạt 28,5 tỉ USD, tăng 29,6%; hàng dệt may đạt 20,7 tỉ USD, tăng 9,1%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 14,3 tỉ USD, tăng 38,2%...
Đáng chú ý là một số mặt hàng nông sản và khoáng sản giảm cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm trước: Dầu thô giảm 0,2% về lượng và giảm 48,3% về kim ngạch; than đá giảm 75,5% và 65,4%; cà phê giảm 26,7% và 29,3%. Riêng mặt hàng gạo, tuy lượng tăng 3,9% nhưng kim ngạch giảm 4,6%.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu trong 11 tháng, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 30,6 tỉ USD, tăng 17,6% so với cùng kỳ năm 2014. Tiếp đến là thị trường EU với 28,1 tỉ USD, tăng 10,2%; ASEAN đạt 17 tỉ USD, giảm 4%; Trung Quốc đạt 15,6 tỉ USD, tăng 14,3%; Nhật Bản đạt 12,8 tỉ USD, giảm 4,5%; Hàn Quốc đạt 8,4 tỉ USD, tăng 28,8%.
Theo Báo Chính phủ
Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Doanh nghiệp Việt vẫn "chầu rìa" miếng bánh 2.500 tỷ USD? Với số dân khoảng 650 triệu người, kim ngạch thương mại đạt 2.500 tỷ USD khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) thành lập, 10 nước ASEAN sẽ là thị trường tự do hóa rộng lớn, với dân số trẻ và mức tiêu dùng cao. Nhưng trên thực tế, đây là "miếng bánh" không hề dễ đối với doanh nghiệp và hàng Việt....