Khám phá Siquijor – Hòn đảo phép thuật ở Philippines
Từ thời cổ đại, hòn đảo Siquijor xa xôi ở Philippines được biết đến là một “ trung tâm phép thuật”, chữa bệnh theo phương pháp dân gian và là nơi ở của phù thủy.
Siquijor được gọi là “đảo huyền bí”. Ảnh: Simon Urwin/BBC
Đảo Siquijor nằm ở vùng Visayas Trung bộ, thu hút nhiều du khách Philippines, bao gồm cả những người sống ở nước ngoài, đến để trải nghiệm các liệu pháp chữa bệnh huyền bí của người địa phương, cùng các hoạt động như pha chế thuốc, trừ tà và xông hơi thảo dược.
Các phương pháp điều trị khác nhau có trên hòn đảo này được coi là có sức mạnh siêu nhiên, tiêu trừ bệnh tật, bất kể nghiêm trọng đến mức nào. Có nhiều lý do khiến mọi người rất tin tưởng những phương pháp này.
Hướng dẫn viên địa phương Luis Nathaniel Borongan chia sẻ: “Lý do đầu tiên chính là nhiều người tin rằng có nhiều thế giới tồn tại song song chúng ta. Những linh hồn luôn ở quanh chúng ta, trong rừng, biển, thác nước. Nếu con người xâm phạm nơi ở của họ, họ có thể trả thù khiến mọi người đau ốm, bệnh tật”.
Anh Borongan giải thích rằng lý do thứ hai là nhiều người tin rằng phép thuật phù thuỷ có thể khiến chúng ta mắc bệnh. Có nhiều hình thức ám hại bao gồm haplit – bỏ bùa ai đó bằng búp bê voodoo và barang – lấy côn trùng để gây hại cho con người, mùa màng
Lý do thứ ba, nhiều người tin rằng bất kỳ bệnh nào, dù là đau họng đơn giản hay ám ảnh do ma thuật, đều có thể được chữa khỏi bằng cách đến gặp mananambal (thầy lang). Do đó, nhiều người khi bị mắc bệnh sẽ đến hòn đảo để gặp mananambal.
Khung cảnh đảo Siquijor. Ảnh: Simon Urwin/BBC
Một số người cũng đặt niềm tin to lớn vào khả năng chữa bệnh của những thầy lang trên đảo. Điều này khiến Siquijor thu hút sự chú ý của du khách từ khắp mọi nơi trên khắp đất nước và cộng đồng người di cư.
Video đang HOT
“Du khách khi đến đảo chỉ cần hỏi văn phòng du lịch hoặc lái xe taxi là có thể tìm thấy mananambal. Những người chữa bệnh tin rằng năng lực của họ là món quà của Thượng đế. Vì vậy, họ sẽ chữa bệnh cho tất cả mọi người”, anh Borongan nói.
Theo hướng dẫn viên Borongan, nhiều người thường đến gặp mananambal thay vì đến gặp bác sĩ. Mananambal thường chữa bệnh bằng các loại thảo dược tự chế từ gần 300 cây thuốc mọc trên đảo. Sự phong phú của thảm thực vật chữa bệnh cũng có thể lý giải tại sao phương pháp chữa bệnh dân gian lại quan trọng đối với cuộc sống trên đảo trong nhiều thế kỷ.
Thầy thuốc Pascal Ogoc sử dụng chiếc gậy “bắt bệnh” bằng phương pháp Tigi. Ảnh: BBC
Hai nhà thám hiểm Tây Ban Nha – Juan Aguirre và Esteban Rodriguez – là những người châu Âu đầu tiên đặt chân đến Siquijor vào năm 1565. Phát hiện ra hòn đảo từ xa và nghĩ rằng nó đang bốc cháy, họ đặt tên cho hòn đảo này là Isla de Fuego (đảo Lửa).
“Trên thực tế, ánh sáng mà các nhà thám hiểm nhìn thấy là từ những con đom đóm bay lượn trên những cây molave, loại cây bản địa mọc trên đảo”, anh Borongan nói.
Sử dụng các loại thuốc thảo dược rất phổ biến trên đảo. Du khách có thể dễ dàng mua chúng ở các cửa hàng ven đường với giá khoảng 100 peso (khoảng 45 nghìn đồng). Một trong những loại thuốc phổ biến nhất là thuốc tình yêu chứa 20 thành phần tự nhiên bao gồm pangamay, một cành cây có hình dạng kỳ lạ giống bàn tay.
Đảo Siquijor nằm ở vùng Visayas Trung bộ. Ảnh: BBC
Một trong những nghi lễ cổ xưa trên đảo còn tồn tại đến ngày nay và thu hút du khách là “Thứ bảy Đen tối”. Các pháp sư sẽ dùng một loại thuốc tạo ra từ hơn 200 loại thảo dược, có màu đen gọi là sáp minasa để đốt trong lễ to-ob. Nghi lễ này sẽ giúp nhằm hoá giải bùa chú, xua đuổi những linh hồn ma quỷ. Để làm sáp minasa, những người thầy thuốc phải đến thăm những nơi linh thiêng trên đảo vào 7 thứ 6 liên tiếp trong Mùa chay để thu thập các nguyên liệu như côn trùng, hoa, thảo mộc, mật ong rừng, sáp nến trong nghĩa trang. Sau đó, họ sẽ nấu nguyên liệu này thành sáp vào ngày Thứ bảy Đen tối hay Ngày thứ 6 Tuần thánh.
Điều đặc biệt là những người đến Siquijor chữa bệnh sẽ không phải trả phí điều trị. Thay vào đó họ được yêu cầu đóng góp một khoản nhỏ.
Thầy thuốc Juanita Torremacha nói:”Chúng tôi chữa bệnh không vì lợi nhuận. Chúng tôi sống rất đơn giản”.
Tuy nhiên, ngày nay số lượng người chữa bệnh trên đảo đã giảm đáng kể.
Để thu hút du khách đến đảo, giới chức đã tổ chức Lễ hội chữa bệnh trên đảo hàng năm vào mỗi Tuần Thánh kể từ năm 2006 tại Vườn quốc gia Núi Bandilaan. Người dân địa phương và du khách đều được chào đón tham dự.
Hướng dẫn viên Borongan nói: “Mọi người đều có thể tự trải nghiệm các nghi lễ. Chúng tôi muốn chứng minh rằng đây không phải là điều viển vông. Khả năng chữa lành của chúng tôi rất mạnh mẽ và trong nhiều thế kỷ, đó là điều tạo nên sự độc đáo của Siquijor. Chúng tôi không muốn đánh mất điều kỳ diệu này”.
Nơi 'thuyền xanh' cập bến
Trong không gian gió lộng biển khơi ở vịnh Lagonoy của Philippines, ngư trường cá ngừ vây vàng quan trọng nhất của quốc gia Đông Nam Á này đã khoác trên mình "chiếc áo" mới mang màu xanh đặc trưng của biển cả.
Đó là chứng nhận MSC mà Hội đồng Quản lý biển (Marine Stewardship Council) cấp cho thủy hải sản có nguồn gốc từ nghề cá bền vững, hạn chế tối đa tác động đối với hệ sinh thái và quản lý hiệu quả.
Giống như "giấy thông hành", những mẻ cá ngừ mang theo những "chiếc áo" xanh MSC vươn tới "bến đỗ" xa hơn, đến các thị trường khó tính, đem lại sinh kế tốt hơn cho ngư dân Philippines, trong khi bảo vệ được nguồn lợi thủy sản cho thế hệ sau. Đây là nỗ lực bền bỉ tiếp theo nhằm duy trì vị thế quốc gia có nghề cá bền vững và thân thiện với môi trường mà Philippines thúc đẩy sau khi Liên minh châu Âu (EU) vào tháng 4/2015 gỡ bỏ "thẻ vàng" cảnh báo về hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) đối với Philippines. Và nỗ lực kiến tạo cuộc "cách mạng xanh" này cần sự tham gia của tất cả các nước có nghề cá là mũi nhọn kinh tế, thông qua việc sử dụng "con thuyền xanh" mang tên "Blue transformation in action" mà FAO đã "hạ thuỷ" từ năm 2021.
Nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản là một "mắt xích" quan trọng trong hệ thống sản xuất lương thực toàn cầu, góp phần xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực và nền tảng của thịnh vượng. Báo cáo hai năm một lần mà FAO vừa công bố một lần nữa khẳng định vai trò này khi tổng sản lượng đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản toàn cầu trong năm 2022 đạt 223,2 triệu tấn, tăng 4,4% so với năm 2020. Đáng chú ý là lần đầu tiên sản lượng nuôi trồng vượt quá sản lượng đánh bắt trong bối cảnh trữ lượng tự nhiên đang ngày càng sụt giảm. Điều này làm dấy lên hy vọng về khả năng giải quyết vấn đề an ninh lương thực và dinh dưỡng toàn cầu mà không hủy hoại hơn nữa môi trường biển. Chỉ riêng năm 2022, lượng tiêu thụ thực phẩm thủy sản trên toàn cầu ước đạt 165 triệu tấn, tăng gần gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng dân số thế giới hằng năm kể từ năm 1961. Ngành nuôi trồng thuỷ sản ở châu Á chiếm tới khoảng 70% sản lượng toàn cầu.
Tuy nhiên, ngành thủy sản toàn cầu cũng đối mặt với không ít thách thức. Đặc biệt, nạn khai thác và đánh bắt quá mức, thiếu bền vững có nguy cơ phá vỡ sự đa dạng sinh học hoặc làm suy yếu các chức năng của hệ sinh thái mà hệ quả tồi tệ nhất là nguy cơ "xóa sổ" nguồn lợi thủy sản. Bên cạnh đó, đánh bắt IUU cũng làm xói mòn nỗ lực quốc gia và khu vực trong bảo tồn hệ sinh thái biển và mục tiêu phát triển nghề cá bền vững. Đó là lý do năm 2021, FAO phát động chương trình "Chuyển đổi Xanh" cho ngành thủy sản.
Sau 3 năm kể từ khi thúc đẩy "con thuyền" hành động chuyển đổi xanh bền vững cho ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản, Tổng Giám đốc FAO, ông Khuất Đông Ngọc (Qu Dongyu) khẳng định "con thuyền" này đã đi đúng hướng. Những nỗ lực "xanh hóa"ngành thủy sản mà nhiều quốc gia đang thực hiện được ví như "ngọn gió" thổi căng cánh buồm đưa con thuyền xanh ấy tiếp tục ra khơi, trên hành trình đạt được mục tiêu thủy sản bền vững, đem lại môi trường biển tốt hơn, nguồn dinh dưỡng tốt hơn và không bỏ lại ai phía sau.
Chuyển đổi xanh trong ngành thủy sản đặt trọng tâm vào việc bảo đảm đủ nguồn cung cho dân số ngày càng tăng theo cách bền vững về mặt môi trường, xã hội và kinh tế cũng như hỗ trợ khả năng phục hồi hệ thống thực phẩm thủy sản chịu ảnh hưởng rất lớn từ hoạt động đánh bắt quá mức của con người và tác động của môi trường biến đổi khí hậu. Đây cũng là trụ cột của Tuyên bố nghề cá bền vững 2021 của FAO, góp phần thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì phát triển bền vững của Liên hợp quốc, đặc biệt là Mục tiêu 14 về bảo tồn và phát triển bền vững các đại dương, biển và tài nguyên biển.
FAO đã và đang triển khai hàng loạt sáng kiến. Trước hết là Chương trình phát triển chuỗi giá trị thủy hải sản (FISH4ACP) tại các quốc đảo nhỏ đang phát triển từ châu Phi, Caribe đến Thái Bình Dương. Sáng kiến này đã "lột xác" ngành đánh bắt tôm - sản phẩm xuất khẩu chính của Cameroon. Việc cải thiện thu thập dữ liệu và truy xuất nguồn gốc sản phẩm trong chuỗi giá trị đã giúp giám sát sự ổn định của trữ lượng tôm để quyết định mức đánh bắt theo hướng bảo tồn nguồn lợi, cải thiện kiểm soát chất lượng sản phẩm đánh bắt để nâng cao khả năng tiếp cận thị trường giá trị cao hơn. Nhờ đó, quốc gia Trung Phi này cân bằng được "đa phương trình": duy trì nguồn tôm bền vững cho thế hệ mai sau, đảm bảo sản lượng và tính cạnh tranh cao hơn mà vẫn bảo vệ môi trường, mang lại lợi ích cho nền kinh tế địa phương và thúc đẩy việc làm.
Một "bảo bối" khác của FAO là sáng kiến Tăng trưởng Xanh (Blue Growth Initiative) hỗ trợ Indonesia, Bangladesh, Cote d' Ivoire, Cabo Verde và Seychelles xử lý vấn đề môi trường. Trong khi đó, Liên minh châu Âu (EU) cũng "ra khơi" với dự án nuôi trồng thủy sản bền vững, có lợi nhuận và phục hồi toàn Đại Tây Dương (ASTRAL) năm 2020, tập trung phát triển các chuỗi giá trị mới cho nuôi trồng thủy sản tích hợp.
Là một trong những quốc gia hàng đầu trong ngành thủy sản, Na Uy luôn cập nhật chiến lược phát triển để duy trì "ngôi vương". Điểm nhấn trong Chiến lược nuôi trồng thuỷ sản 2021 của Na Uy là sáng tạo và có trách nhiệm. Điều này được thấy rõ nhất trong đổi mới công nghệ tại trang trại nuôi cá hồi ngoài khơi với hệ thống cảm biến giám sát hoạt động của lồng cá, việc cho ăn và ngăn chặn sự cố cá hồi thoát ra khỏi lồng.
Gần đây, lần đầu tiên sau hơn 40 năm, Mỹ cũng cập nhật kế hoạch phát triển thủy sản quốc gia, trong đó đề cao sự hợp tác của liên ngành trong việc phát triển và ứng dụng các giải pháp khoa học, công nghệ và chính sách. Các chuyển động này nhằm tối đa hóa lợi ích nuôi trồng thủy sản đối với an ninh lương thực, tăng cường khả năng phục hồi khí hậu và bảo vệ các loài sinh vật biển và nước ngọt đang bị đe dọa hoặc có nguy cơ tuyệt chủng.
Xác định chuyển đổi xanh là xu hướng tất yếu, ngành thủy sản Việt Nam đang hướng đến những mô hình nuôi trồng thủy sản bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, chẳng hạn như mô hình sinh thái, hữu cơ, mô hình sử dụng vi sinh, hoặc sử dụng năng lượng điện tái tạo như điện Mặt Trời, điện gió, điện biogas. Mới đây con nghêu và nghề khai thác nghêu Bến Tre đã lần thứ ba được MSC chứng nhận vị thế khai thác bền vững cho đến năm 2029. Năm 2009, nghêu Bến Tre là sản phẩm đầu tiên của Việt Nam, cũng là sản phẩm thủy sản đầu tiên của Đông Nam Á được cấp chứng nhận MSC.
Đặc phái viên của Tổng thư ký LHQ về Đại dương Peter Thomson từng khẳng định rằng một khi con người đối xử với biển cả bằng sự tôn trọng xứng đáng, biển cả sẽ vẫn mang lại lợi ích như trước đây - trở thành nguồn cung cấp tuyệt vời cho cuộc sống trên hành tinh Trái Đất. Có thể khẳng định nỗ lực chuyển đổi xanh ngành thủy sản thế giới là một cách để con người bày tỏ "sự tôn trọng" với biển cả, và khi đó, biển cả sẽ truyền sức mạnh để "con thuyền xanh" no gió và cập bến.
Đối thoại Mỹ - Trung tại Shangri-La 2024 Đối thoại Shangri-La có tên đầy đủ là Hội nghị An ninh châu Á, là cơ chế đối thoại an ninh đa phương thường niên do Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế Anh (IISS) khởi xướng vào năm 2002 và được Chính phủ Singapore hỗ trợ, có đặc điểm cấp bậc cao, quy mô rộng, tầm ảnh hưởng lớn và đến lần...