Iloveyou – virus khét tiếng mọi thời đại
Ra đời cách đây 20 năm khi Internet chưa thực sự phổ biến, virus Iloveyou đã lây lan trên 50 triệu máy tính và gây thiệt hại 10 tỷ USD.
Mặc áo phông kẻ ngang và đeo kính kiểu trong phim Matrix, Onel de Guzman nhìn chằm chằm xuống sàn khi đi ngang qua đám đông phóng viên để bước vào phòng họp báo ở thành phố Quezon (Philippines) ngày 11/5/2000 – tròn một tuần sau khi virus Iloveyou làm đảo lộn thế giới Internet.
Khuôn mặt gầy gò với vài lọn tóc đen rủ xuống trán, anh xuất hiện để trả lời các câu hỏi của báo chí, thi thoảng dùng khăn lau mồ hôi trên mặt. Ngồi bên phải là luật sư của anh, Rolando Quimbohad. Ông phải nghiêng người để có thể nghe rõ câu trả lời lí nhí của chàng thanh niên 23 tuổi, sau đó dịch sang tiếng Anh cho báo chí.
“Nếu các vị hỏi tôi liệu cậu ấy có nhận thức được hậu quả, có thể nói rằng câu trả lời là không”, Quimbohad nói.
Onel de Guzman trong buổi họp báo giữa tháng 5/2000.
Onel de Guzman bị cáo buộc là tác giả của Iloveyou – virus giả danh tình yêu lây lan trên hàng chục triệu máy tính toàn cầu với thiệt hại ước tính 10 tỷ USD, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động của doanh nghiệp và tổ chức khắp thế giới từ Ford, Merrill Lynch cho tới Lầu Năm Góc hay Quốc hội Anh.
20 năm sau, Iloveyou vẫn nằm trong danh sách những virus có tốc độ phát tán khủng khiếp nhất và là sự khởi đầu trong hành trình thức tỉnh công chúng về sự nguy hiểm của mã độc cũng như các cuộc tấn công mạng. Nó cho thấy nguy cơ từ những lỗ hổng trong hệ thống mà đến nay người dùng vẫn liên tục phải đối mặt, dù đã qua hai thập kỷ với vô số cải tiến về công nghệ và bảo mật máy tính.
Onel de Guzman giữ im lặng từ sau năm 2000, cho tới tuần này khi nhà báo điều tra Geoff White lần ra anh. Anh hiện quản lý một cửa hàng sửa chữa điện thoại ở Manila và thừa nhận mình là tác giả của virus.
Cỗ máy hủy diệt
Chiều 4/5/2000, Michael Gazeley ngồi trong văn phòng ở khu Star Computer City (Hong Kong). Vài tháng trước đó, ông mới thành lập công ty chuyên xử lý các mối đe dọa trực tuyến mang tên Network Box.
Điện thoại trong văn phòng ông đồng loạt đổ chuông. Đầu tiên là từ khách hàng, rồi từ cả những người không phải khách hàng. Tất cả đều muốn Network Box hỗ trợ chặn một virus đang lây lan trong hệ thống của họ và phá hủy dữ liệu nội bộ. Tất cả cùng kể một câu chuyện: Ai đó trong công ty nhận được email với tiêu đề “Iloveyou” cùng lời nhắn “Hãy mở thư tình của tôi trong file đính kèm”. Thực tế, ngay khi mở file, mã độc nhanh chóng kiểm soát máy tính, nhân bản và gửi bản sao tới những người khác trong danh sách địa chỉ email. Người nhận, tưởng là trò đùa hoặc lời tỏ tình của người gửi, tiếp tục mở file, khiến virus lan theo cấp số nhân.
Song song với việc nhân bản, Iloveyou còn thu thập mật khẩu, đổi tên và xóa hàng nghìn file trong ổ cứng máy tính. Các nạn nhân hoảng sợ cầu cứu Gazeley bởi họ không sao lưu dữ liệu dự phòng, và ông cũng mất nhiều thời gian giải thích rằng nhiều file – như hồ sơ tài chính, ảnh, nhạc MP3… – sẽ “một đi không trở lại”.
Theo Gazeley, người dùng Internet khi đó không nhận ra email cũng ẩn chứa các mối nguy hiểm. Kiểu tấn công này còn quá mới vào năm 2000. Theo thống kê của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), chỉ 28% người dân ở Hong Kong, 27% người Anh hay 15% người Pháp kết nối Internet giai đoạn đó. Ngay cả ở Mỹ, nơi công nghệ này được phát minh, cũng chỉ đạt 43%.
Virus Iloveyou nhắm đến người dùng các nước giàu có như Hong Kong, châu Âu,
Cuộc hỗn loạn
Cùng ngày 4/5/2000, chuyên gia bảo mật Graham Cluley của Sophos tham gia một hội thảo tại Stockholm (Thụy Điển), mô tả một mã độc có khả năng khống chế tài khoản và truyền đi thông điệp tới các đồng nghiệp của nạn nhân rằng “Thứ sáu, tôi đang yêu”.
Trong giờ nghỉ giải lao, điện thoại và máy nhắn tin của khách tham dự bỗng nhận được những email với tiêu đề “I love you”. Một số vội tới gặp Cluley, hỏi liệu có phải thiết bị của họ vừa dính virus mà ông mô tả. Cluley khẳng định không phải bởi virus mà ông nhắc đến chỉ hoạt động giới hạn trên hệ thống mà đa số mọi người không sử dụng.
Video đang HOT
Kết thúc hội thảo, Cluley kiểm tra điện thoại và đập vào mắt ông là hàng loạt cuộc gọi lỡ, tin nhắn và thư thoại. Công ty Sophos của ông ở Anh cũng liên tục nhận được các cuộc gọi từ đối tác đề nghị giúp đỡ và cả các nhà báo muốn biết chuyện gì đang diễn ra.
Cluley lao ra sân bay, bắt chuyến tới London, thậm chí còn mua lại pin điện thoại của một tài xế taxi hào phóng bởi loạt tin nhắn đã khiến điện thoại Nokia của ông kiệt pin. Khi tới Anh, một chiếc xe đợi sẵn đón ông tới đài truyền hình để trao đổi về loại mã độc mà ngay này trở thành một trong những virus khét tiếng mọi thời đại.
Trong vỏn vẹn 5 giờ đồng hồ, Iloveyou lan khắp châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ với tốc độ nhanh gấp 15 lần Melissa – virus ra đời năm 1999 và lây nhiễm trên một triệu máy tính. Hạ viện Anh, công ty Ford Motor, thậm chí cả Microsoft phải tắt máy chủ email.
Phần mềm Outlook của Microsoft là phương tiện chính để hacker phát tán virus. Khi đó, Windows đang có mặt trên 95% máy tính cá nhân và Outlook được cài sẵn trong gói Office. Với rất nhiều người thời đó, Outlook đồng nghĩa với email.
Là Giám đốc Trung tâm bảo vệ cơ sở hạ tầng quốc gia Mỹ NIPC – cơ quan có nhiệm vụ đối phó với các mối đe dọa trên mạng, Michael Vatis được khuyến cáo về Iloveyou từ sớm 4/5. NIPC nhanh chóng phát đi cảnh báo về “một virus được xác định là LoveLetter hoặc LoveBug đang phát tán qua email toàn cầu”, nhưng vẫn quá muộn. Virus lan nhanh bởi nhiều người tò mò muốn mở “thư tình”, trong đó có hàng chục doanh nghiệp Mỹ, Lầu Năm Góc…
Các công ty diệt virus bắt đầu tung ra bản vá. Tuy nhiên, virus đã kịp có mặt trên 50 triệu máy tính.
Cục Điều tra Liên bang Mỹ lập tức mở cuộc điều tra và nhận thấy virus không có nguồn gốc ở Hong Kong mà là Philippines. Iloveyou được lập trình khá vụng về. Nó trộn lẫn vài đoạn mã của một số virus sẵn có và thậm chí còn không che giấu nguồn gốc.
Iloveyou chứa một số đoạn code giúp xác định tác giả, như hai địa chỉ email là spyder@super.net.ph và mailme@super.net.ph, đều thuộc Philippines. Code cũng đề cập tới nhóm hacker GrammerSoft Group. Virus giao tiếp với một máy chủ đặt tại Sky Internet ở Manila để gửi về mật khẩu máy tính của nạn nhân. Sau khi Sky tắt máy chủ, Iloveyou chỉ có thể xóa file trên thiết bị, thay vì thực hiện mục đích ban đầu là thu thập mật khẩu.
Iloveyou được lập trình vụng về, để lộ nguồn gốc tác giả.
Bốn ngày sau, cảnh sát Philippines tới một căn hộ ở Manila, thu giữ các tạp chí máy tính, điện thoại, đĩa mềm, băng cassette và bắt một trong những người sống ở đó là Reomel Ramones.
Ramones, khi đó 27 tuổi với mái tóc xoăn, làm việc cho một ngân hàng địa phương. Trông anh không giống một hacker và các nhà điều tra băn khoăn liệu có bắt nhầm người. Họ bắt đầu chú ý đến hai người khác: bạn gái của Ramones là Irene de Guzman và em trai của cô, Onel de Guzman.
Onel de Guzman, không ở căn hộ khi cuộc bắt giữ diễn ra, là sinh viên tại Cao đẳng máy tính AMA. Trường này cũng là nơi hoạt động của nhóm GrammerSoft Group, được thành lập để giúp sinh viên gian lận khi làm bài về nhà. Nhà trường cũng cung cấp cho cảnh sát bản thảo luận án đã bị từ chối của Onel de Guzman, trong đó mô tả về một chương trình tương tự Iloveyou.
Trong bản thảo này, de Guzman viết mục đích của chương trình là “thu thập mật khẩu Windows” và “đánh cắp tài khoản Internet từ máy tính nạn nhân”. Khi đó, việc truy cập Internet ở Philippines được thực hiện qua kết nối dial-up và tính tiền theo từng phút. de Guzman muốn tìm cách nào đó để người dùng ở các nước đang phát triển có thể “mượn” kết nối của người dùng ở các nước giàu hơn, nhờ đó có nhiều thời gian vào mạng hơn mà không phải trả tiền.
Vướng mắc về luật pháp
Ngày 11/5, de Guzman xuất hiện trước báo chí ở Quezon cùng với luật sư và chị gái. “Cậu ấy thậm chí không biết hành động của mình sẽ dẫn đến những hậu quả mà chúng ta đã biết”, luật sư nói.
Dù cảnh sát Philippines, FBI và giới bảo mật đều khẳng định de Guzman là tác giả virus, cậu không bị trừng phạt.
Vấn đề nằm ở chỗ các nhà điều tra không có đủ chứng cứ rõ ràng. Quan trọng hơn, Philippines, như nhiều nước khác trong giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ, chưa ban hành luật về tội phạm mạng. Sau sự cố Iloveyou, các nhà làm luật nước này gấp rút soạn thảo luật an ninh mạng và máy tính. Tuy nhiên, nó không thể được dùng để xét xử cho một hành vi đã diễn ra trước khi luật ra đời.
Bên cạnh đó, nhiều người Philippines còn de Guzman là người hùng. Sinh viên tại trường Cao đẳng máy tính AMA nói với New York Times rằng họ cảm thấy tự hào vì “hacker Philippines có thể thâm nhập cả vào Lầu Năm Góc dù đi sau về công nghệ so với Mỹ”, hay “Iloveyou cho thấy người Philippines sáng tạo và đủ khả năng làm đảo lộn thế giới, dù theo hướng tích cực hay tiêu cực”.
Ở giai đoạn đầu của Internet, sâu máy tính được viết ra chủ yếu với mục đích thử nghiệm, phát tán càng rộng càng tốt nhằm gây tiếng vang. Nhưng sau này, hacker bắt đầu chuyển sang dùng virus tấn công hệ thống vì tiền, nhắm tới những mục tiêu nhất định thay vì lây lan trên diện rộng.
“Điều đáng sợ là sau 20 năm, vẫn có rất nhiều tổ chức không quan tâm đến bảo mật cho tới khi họ gặp sự cố”, chuyên gia bảo mật Gazeley ở Hong Kong nhận xét.
Top 10 virus nguy hiểm nhất mọi thời đại
Virus luôn là nỗi lo lớn nhất khi chúng ta sử dụng máy tính, chúng có thể xóa sạch dữ liệu trong máy, đánh cắp thông tin hoặc làm sập các trang web.
Quay về năm năm 1980, lúc đó máy tính chưa được phổ biến và internet còn là một thứ gì đó xa xỉ thì các loại virus đã bắt đầu xuất hiện rồi các bạn ạ. Lúc đó, virus phụ thuộc vào độ "thiếu hiểu biết" của con người để lan. Các hacker sẽ cài virus vào các loại băng đĩa rồi phát tán chúng cho người khác. Ngày nay, cách phát tán virus thủ công như vậy không có hiệu quả và internet đang là nơi lây lan các loại virus nguy hiểm nhất.
10. Melissa
Vào năm 1999, David L.Smith tạo ra một loại virus dựa trên Microsoft Word và được lan truyền thông qua đường email. Mỗi khi có người nhận email, virus Melissa sẽ ngụy trang thành file Word và được đặt tên là "Đây là file Word bạn cần, đừng cho ai khác xem nhé!". Sau khi bạn click vào file Word đó, virus sẽ tự động tạo thêm 50 con nữa rồi gửi email cho 50 người khác. Virus Melissa buộc nhiều công ty và chính phủ Mỹ ngừng dùng email do "nghẽn" mạng. Mặc dù không gây ra thiệt hại lớn nhưng đây là virus đầu tiên được nhiều người biết đến.
9. ILOVEYOU
Một năm sau khi Melissa xuất hiện, virus ILOVEYOU bắt đầu lan rộng từ hàng xóm Philippin. Đây là loại virus chuyên gửi email lừa các bạn "FA" vì bên trong email có nội dung "đây là bức thư từ người hâm mộ của bạn, hãy tải file này về để xem". Sau khi tải file có tên LETTER-FOR-YOU.TXT.vbs được đính kèm bên trong thì virus sẽ xâm nhập vào máy. Nó sẽ tự nhân bản và tạm thời ẩn nấp, thêm hoặc thay đổi nhiều loại file bên trong máy rồi tiếp tục tự động gửi email đến thêm nhiều người nữa. Cuối cùng, nó tự tải một chương trình có tên WIN-BUGSFIX.EXE chuyên đánh cắp mật khẩu email của bạn rồi gửi về cho hacker. Theo ước tính thì virus ILOVEYOU đã gây thiệt hơn 10 tỷ USD.
8. Klez
Vào năm 2001, Klez lần đầu tiên xuất hiện và được tạo ra thêm rất nhiều phiên bản khác nhau. Tùy vào phiên bản mà cách virus "quậy phá" sẽ khác nhau. Cũng giống như các loại virus trên, Klez cũng tự nhân bản số lượng lớn và gửi đi qua đường email. Những phiên bản "cao cấp" hơn có thể khiến máy tính ngưng hoạt động, vô hiệu hóa các phần mềm diệt virus hoặc đóng giả làm phần mềm diệt virus luôn các bạn a. Ngoài ra, virus Klez còn có thể giả mạo người tên người gửi email, giúp phát tán virus dễ dàng hơn và khó truy tìm nguồn phát tán virus.
7. Code Red và Code Red II
Cũng trong năm 2001, hai loại sâu (worm) Code Red và Code Red II lây lan nhanh chóng nhờ khai thác các lỗ hổng bên trong hệ điều hành Windows 2000 và Windows NT. Red Core khiến mọi máy tính bị nhiễm truy cập vào trang web của Nhà Trắng khine61 web bị sập. Còn Red Core II thì giúp hacker có thể truy cập vào máy sử dụng Windows 2000, đánh cắp mọi tài liệu, thông tin cá nhân quan trọng và còn có thể điều khiển máy tính từ xa. Các máy tính sử dụng Windows NT bị lây Red Code hon nhưng không bị nặng như các máy Windows 2000. Cuối cùng, Microsoft đã phát hành các bản vá khiến hai "con sâu" này không tiếp tục lây lan nữa nhưng người bị dính vẫn phải tự mình tìm và diệt chúng.
6. Nimda
Có lẽ năm 2001 là năm các loại virus hoành hành các bạn ạ. Virus Nida có tốc độ lây lan nhanh vô cùng, chỉ mất 22 phút để Nimda khiến cả thế giới biết đến tên nó. Mặc dù có thể lây vào máy tính cá nhân nhưng Nimda lại thích các máy chủ (server) hơn. Mục đích chính của nó là làm tê liệt internet, nhưng nếu vô tình lây vào máy tính cá nhân, các hacker cũng có thể dùng Nimda để đột nhập và chiếm luôn quyền điều khiển máy. Sự tấn công của Nimda đả làm sập vô số máy chủ trên thế giới.
5. SQL Slammer (Sapphire)
Vào cuối năm 2003, virus SQL Slammer hay còn gọi là Sapphire tiếp tục tấn công các máy chủ trên toàn thế giới. Rất nhiều máy chủ đã bị bị đánh sập, trong đó có hệ thống ATM của ngân hàng Bank of America, hệ thống 911 của thành phố Seattle, Mỹ và hãng hàng không Continental Airlines phải hủy nhiều chuyến bay vì hành khách không thể check-in. Chỉ sau 15 phút, Slammer đã đánh sập hơn một nửa máy chủ quan trọng "gánh vác" toàn bộ internet. Tổng thiệt hai do Slammer gây ra ước tính hơn 1 tỷ USD và khiến cả thế giới bất ngờ vì sự cố diễn ra quá nhanh.
4. MyDoom
Đầu năm 2004, virus MyDoom hay Novarg xuất hiện và lây lan qua đường email. Lần này, nó tấn công các máy tính cá nhân và một cửa hậu (backdoor) giúp hacker có thể dễ dàng xâm nhập và điều khiển máy tính. MyDoom có thêm một vài biến thể khác, còn virus gốc thì có thể kích hoạt 2 lần nếu chúng đã nhiễm vào máy. Lần đầu tiên virus được kích hoạt vào ngày 1/2/2004 để tạo ra một cuộc tấn công từ chối dịch vụ (DoS). Lần kích hoạt thứ hai vào ngày 12/2/2004 sẽ khiến virus ngừng "sinh sôi". Tuy vậy, các máy nhiễm virus vẫn có thể bị hacker xâm nhập vì cửa hậu vẫn còn bên trong máy. Đến cuối năm 2004, MyDoom tiếp tục tấn công DoS các trang công cụ tìm kiếm như Google, Yahoo, ... Kết quả là tốc độ tải cũng như thời gian tìm kiếm của các trang web này chậm hẳn đi, thậm chí là sập web.
3. Sasser và Netsky
Cả hai con virus này do một thanh niên 17 tuổi người Đức có tên Sven Jaschan tạo ra. Sasser không lây qua đường email như đa phần các con virus khác. Nó tìm thêm nạn nhân bằng cách quét ngẫu nhiên địa chỉ IP và lừa người khác tải virus. Nếu "lỡ dại" tải virus về máy, virus sẽ chỉnh sửa hệ điều hành sao cho khó tắt máy bằng cách nhấn shutdown mà phải rút dây nguồn. Còn Skynet thì lây qua đường email bằng một tập tin đính kèm. Sau khi đã lây lan đủ rộng, nó sẽ tạo ra nhiều cuộc tấn công DoS đánh sập các trang web. Skynet lây lan nhiều đến nỗi có thời điểm nó chiếm 25% số virus có trên internet.
2. Leap-A (Oompa-A)
Nếu tin rằng các máy tính và hệ điều hành do Apple tạo ra không bị dính virus thì bạn sai rồi. Nguyên nhân chủ yếu khiến hacker không tạo virus tấn công là vì số lượng máy của Apple quá ít so với các hệ máy khác nên sẽ không lấy được nhiều thông tin. Đến năm 2006, một loại virus lây qua ứng dụng iChat của dòng Mac xuất hiện. Sau khi đã lây nhiễm thành công, nó sse4 tiếp tục gửi những tài khoản iChat khác một tin nhắn chứa một bức ảnh vô hại định dạng JPEG. Mặc dù không gây ra thiệt hại đáng kể nhưng con virus này cũng đã chứng minh rằng các dòng máy của Apple không phải là "bất khả xâm phạm".
1. Storm Worm
Vào năm 2006, Storm Worm bắt đầu lây lan thông qua các email có tiêu đề "230 người chết vì bão tấn công Châu Âu". Sau này, các hacker tạo thêm nhiều nội dung khác nhau như "thảm họa chết người ở Trung Quốc" hay "chiến tranh thế giới thế II sắp nổ ra" để lừa người nhận email vào xem. Trong những email đó sẽ đính kèm các đường link tải video hoặc bài báo, nếu người nhận email tò mò mở link ra xem thì sẽ tải virus về máy. Sau khi bị nhiễm virus, các hacker có thể điều khiển máy từ xa, tạo ra botnet và tiếp tục gửi email rác đi khắp nơi. Đến tháng 7/2007, một số cơ quan an ninh mạng công bố phát hiện hơn 200 triệu email chứa đường link tải virus. Dù lan truyền rất nhanh nhưng may mắn là Storm Worm dễ bị các phần mềm diệt virus phát hiện và tiêu diệt các bạn ạ.
BONUS: WannaCry
Công nghệ ngày càng hiện đại và các loại virus cũng "tiến hóa" theo nhiều hướng khác nhau. WannaCry mặc dù không "quậy phá" máy tính hay đánh cắp thông tin như các loại virus "truyền thống" nhưng vẫn rất nổi tiếng vì độ nguy hiểm của nó. Chính xác hơn thì nó là ransomware chuyên khóa máy, đòi tiền chuộc. Vào ngày 12/05/2017, WannaCry bắt đầu tấn công các nước Châu Á. Chỉ sau vài ngày thì lây lan ra 150 quốc gia và khiến hơn 230,000 máy tính "muốn khóc" thật sự. Wanna cry được đính kèm vào các phần mềm "crack" trên các trang web có nhiều lượt truy cập. Nếu bạn tải phần mềm về và cài đặt thì toàn bộ dữ liệu sẽ bị mã hóa. Ngoài ra, nó còn có thể lây qua các máy trong cùng mạng LAN bằng cách khai thác lỗ hổng bảo mật EternalBlue do Cơ quan An ninh Quốc Gia Hoa Kỳ (NSA) tìm ra. Các máy bị mã hóa sẽ không thể nào mở dữ liệu trong máy mà chỉ có cách trả tiền chuộc bằng BItcoin và đợi hacker mở ra. Cuộc tấn công gây ra thiệt hại khoảng 4 tỷ USD cùng với nhiều khoản thiệt hại khác chưa được thống kê đầy đủ.
Theo gearvn
Kiên cường trước COVID-19, sự kiện máy tính lớn nhất thế giới Computex 2020 xác nhận không đổi lịch Đây là một tin vui, nhưng anh em nào tham gia thì hết sức cẩn thận nhé. GDC 2020 (Game Developers Conference) là sự kiện thường niên với quy mô lớn nhất, quy tụ nhiều nhà phát triển game đến để chia sẻ về những dự án của họ. Và theo thông tin mới nhất thì sự kiện này vẫn sẽ diễn ra...