Huyền thoại về ‘núi xương người’ ở Hà Nội
Mỗi tầng “địa ngục” là một khoảng không gian rộng cả sào và để đi tiếp, phải chui qua một hang nhỏ. Qua mỗi hang nhỏ, với con đường ngoắt ngoéo, lại dẫn đến một tầng “địa ngục” tiếp theo.
Trước khi xuống Thần Quang Động, còn gọi là hang Cắc Cớ, hang động cao nhất của núi Sài Sơn (Quốc Oai, Hà Nội), tôi đã tham khảo, tìm hiểu thông tin từ người dân sống quanh núi Sài Sơn.
Bất cứ ai sống quanh ngọn núi Sài Sơn cũng kể vanh vách những truyền thuyết về ngọn núi và hang động đầy ma quái, c.hết chóc này. Tuy nhiên, khi hỏi cụ thể đường đi lối lại trong động, thì họ đều mù tịt. Những chuyện họ kể chỉ là nghe lại từ những người ngày xưa từng xuống hang, nhưng những người từng khám phá hang động phần lớn đều đã mất vì t.uổi tác. Bao nhiêu năm nay không có ai khám phá lòng núi này nữa.
Bà Hoa, người đàn bà bán hàng lặt vặt và cho thuê đèn pin ở hốc đá ngay cửa động là người nắm được nhiều chuyện nhất về Thần Quang Động, mặc dù bà chưa xuống hang sâu bao giờ. Bà sinh ra, lớn lên ở chân núi Sài Sơn, lại bán hàng ngay cửa động đã hơn 20 năm nay, nên sưu tầm được vô số câu chuyện về hang động này.
Theo bà Hoa, truyền thuyết kể rằng, núi Sài Sơn là quái long (con rồng bướng) hóa đá. Hang Cắc Cớ chính là bụng của con rồng. Đây là nơi có con quỷ án ngữ, lo việc tuyển các linh hồn, để cho lên thiên đường hay đày xuống địa ngục.
Bụng con rồng này gồm 9 tầng “địa ngục”. Hang Cắc Cớ có bể xương, nơi khách tham quan lên xuống chỉ là tầng thứ hai, 7 tầng còn lại nằm sâu trong lòng núi. Xưa kia, đã có một số người trong làng khám phá hết các tầng “địa ngục”, song họ đã c.hết cả. Ông cụ Thứ là người đi đủ các tầng địa ngục và hết tổng cộng 1 tuần. Ông cụ Thứ cũng đã mất nhiều năm nay rồi.
Mỗi tầng “địa ngục” là một khoảng không gian rộng cả sào và để đi tiếp, phải chui qua một hang nhỏ. Cứ mỗi hang nhỏ, với những con đường ngoắt ngoéo, lại dẫn đến một tầng “địa ngục” tiếp theo.
Thông tin chỉ nắm được vậy, tôi và một đồng nghiệp lên đường. Dù chẳng mê tín tí nào, song tôi cũng làm lễ như lời bà Hoa dặn dò. Tôi thắp nén nhang, thầm khấn vái trước hàng ngàn bộ xương trong bể h.ài c.ốt, cầu được bình an trở về.
Trước khi xuống hang, vào lúc 8h sáng, tôi không quên dặn dò vợ chồng bà Hoa: “Nếu 5h chiều mà chưa thấy cháu lên, nhờ cô tổ chức người đi tìm”. Bà Hoa tốt bụng bảo: “Cháu không dặn thì cô cũng phải đi tìm thôi. Cháu cứ đi cẩn thận, chậm chạp thôi. Chúc cháu lên đường thành công”.
Video đang HOT
Tôi thuê liền lúc 10 chiếc đèn pin của bà Hoa, cộng với 1 chiếc đèn sạc lớn, một chiếc đèn pin nhỏ kèm 10 cục pin tôi chuẩn bị trước. Ngoài ra, còn 2 chiếc điện thoại có đèn, phòng trường hợp các đèn pin đều hết điện, cháy bóng. Với số lượng đèn điện này, tôi dự tính đủ dùng cho 3 ngày, nếu bị lạc đường.
Chồng bà Hoa dẫn tôi đến khu vực 5 ông tượng, là 5 khối thạch nhũ có hình dạng người và chỉ tay xuống hang sâu. Soi đèn pin xuống không thấy đáy đâu cả. Bật chiếc đèn sạc sáng choang, song cũng chả nhìn thấy đáy hang đâu. Nhưng biết hướng đi rồi, tôi và đồng nghiệp cứ thế mà đi. Vì không có người dẫn đường, nên quan điểm thám hiểm của tôi là cứ chỗ nào có đường là tiến, chỗ nào hết đường thì quay lại.
Những ngày này, trời chưa có mưa lớn, thi thoảng chỉ có cơn mưa rả rích, song đá đã “đổ mồ hôi” (từ người dân Sài Sơn dùng), nên đi khá trơn. Mặc dù đôi giày rất bám đá, nhưng nếu không bấu tay vào những gờ đá, lần từng bước chắc chắn, sẽ bị trượt ngã lập tức. Những khu vực ẩm ướt, những tảng đá trơn như bôi mỡ.
Tuột xuống khỏi vách đá, ngẩng đầu lên, chỉ còn thấy ánh sáng mờ mờ hắt xuống từ động Cắc Cớ và tiếng rì rào của những người tham quan. Hôm tôi xuống động là ngày chính hội, người kéo xuống hang Cắc Cớ đông nườm nượp, nhưng tuyệt nhiên chẳng có ai xuống hang sâu cả.
Hết lên dốc lại xuống dốc, rồi thứ ánh sáng nhờ nhờ trên nóc hang Cắc Cớ biến mất hoàn toàn, tiếng rì rầm của hàng trăm người trong động cũng mất hút. Bóng đêm nén mạnh đến nỗi, luồng sáng của chiếc đèn pin không tỏa ra nổi, cứ co lại như một đường thẳng nhỏ. Tôi thử tắt đèn pin, một cảm giác khá khủng khiếp bao vây, như muốn ngộp thở.
Đi hết con dốc quanh co, thì đến một vực sâu hun hút. Soi đèn pin xuống dưới thấy ở độ sâu khoảng 5 mét có khoảng không gian chừng nửa mét vuông để đứng. Đây là một vách đá dựng đứng, lại trơn trượt, rất khó xuống. Tôi và đồng nghiệp phải bật một lúc 7 đèn pin, soi vào các ngóc ngách, lần từng mấu đá để bám, đặt chân mới tụt xuống được. Đứng giữa vực đá này, cảm giác sợ hãi chợt xâm chiếm cơ thể, khiến lạnh toát. Đồng nghiệp của tôi đề xuất: “Hay là quay lên!”.
Đỉnh Fasipan, đỉnh U Bò (giáp Yên Bái và Sơn La), đỉnh Tây Côn Lĩnh, ngã ba biên giới còn chinh phục được, há gì ngọn núi Sài Sơn bé xíu này. Cứ nghĩ đến những bộ xương nằm lạnh lẽo trong lòng núi, lòng tôi lại bùng lên ngọn lửa quyết tâm. Tôi buộc sợi dù vào một mấu đá và tiến hành rải dây. Tôi đã chuẩn bị độ vài ngàn mét dù, đủ cho cả ngày cuốc bộ trong hang không sợ lạc.
Tụt khỏi vách đá dựng đứng, thì đến một khe núi hẹp, phải lách người đi. Tiếp đó, phải chui qua một lỗ nhỏ, chỉ vừa một người bình thường chui. Một ông bụng phệ có lẽ không chui qua được cái lỗ này. Nhóm leo núi của Đặng Bá Hiệp đặt cho cái khe nhỏ xíu này một cái tên khá vui là “lỗ giun”.
Bò qua “lỗ giun”, một khoảng không gian rộng lớn hiện ra. Có lẽ, tôi đã đặt chân đến tầng thứ 3 của hang động. Địa hình của khu vực khá bằng phẳng, nền đất nhẵn thín, mái hang cao hun hút, các vách đá đầy thạch nhũ đủ các hình thù đẹp mắt, kích thích trí tưởng tượng của con người. Không biết có phải đây là Bãi Ba Sào (rộng bằng 3 sào Bắc Bộ) như lời kể của người dân Sài Sơn hay không nữa.
Theo lời các cô hướng dẫn viên du lịch, hầu hết x.ương c.ốt gom vào bể xương trong những năm 30 của thế kỷ trước là ở hang Cắc Cớ và tầng thứ 3 của Thần Quang Động. Có lẽ, lời các cô hướng dẫn viên nói là đúng, vì tôi lòng vòng mãi, soi vào các khe vách ở khu vực này, song tuyệt nhiên không thấy bộ xương nào. Thứ tôi gặp chỉ là những mảnh gốm vỡ, những hố đào nham nhở, là vết tích của những cuộc đào cổ vật diễn ra từ nhiều năm trước.
Tôi và đồng nghiệp đã có gần trọn một ngày lần lục, lăn lóc với các khe vách, ngóc ngách ở Bãi Ba Sào nhuốm màu huyền thoại này.
(Theo VTC News)
Chuyện 'người bị giời đày' đưa tiễn linh hồn ở Bắc Giang
Mặc dù sống ở nơi hẻo lánh không có điện thoại, nhưng hễ nhà ai có đám ma trong phạm vi 15 km đổ lại là ông xuất hiện rất nhanh.
Ông đến và lao vào làm những công việc như người nhà tang chủ, đến khi đưa tiễn linh hồn người c.hết ra đồng ông mới trở về nhà. Người ta hay gọi ông là "Người trời" hay "ông Ninh đám ma"...
Ngày 29/3, Ông Ân Văn Ninh có mặt trước đám tang của một người dân ở thị trấn Chũ - Lục Ngạn, nơi cách xa nhà ông 8 km.
Ở huyện Lục Ngạn - Bắc Giang, chẳng ai còn lạ gì ông Ninh đám ma (tên đầy đủ là Ân Văn Ninh, người dân tộc Sán Dìu) ở thôn Đồng Giao, xã Quý Sơn. Bởi lẽ, hễ nhà ai có đám tang là chắc chắn có mặt ông. Không kể gì nửa đêm hay gà gáy, cứ khi nào nhận được tin báo của "trời đất" là ông Ninh lại quốc bộ đi đến nhà có đám.
Nhiều khi gia đình của nhà người c.hết còn chưa kịp báo tin cho con cháu trong dòng họ, vậy mà ông Ninh đã xuất hiện. Bởi thế, trước kia nhiều gia đình có người nhà mất vào nửa đêm, khi thấy ông đến đã phát hoảng. Ông Ninh có dáng người gầy, dong dỏng cao, khuôn mặt tôi tối, quần áo mặc lúc nào cũng cóc két bụi bẩn.
Mặc dù bản thân ông Ninh với những gia đình có người c.hết chẳng hề quen biết, nhưng khi đến ông lại lao vào giúp đỡ những công việc của nhà đám như họ hàng thân thích của họ. Khi thì pha chè mời khách, lúc lại lau dọn bàn ghế, đặc biệt là khi đưa tang, ông Ninh thường nhận việc dong xe đạp kèm trống hoặc đ.ánh nhạc "tùng" "beng" để đưa tiễn những linh hồn.
Ông Ninh sinh năm 1952. Thời trai trẻ, cũng giống bao thanh niên theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc ông xung phong lên đường nhập ngũ tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thần thánh của dân tộc. Ông từng chiến đấu trên các chiến trường ở Đà Nẵng, Đường 9 Nam Lào... Đến đầu năm 1975 thì ông được xuất ngũ bởi tình trạng sức khoẻ yếu. Trở về địa phương, năm 1976, ông Ninh xây dựng gia đình với bà Nguyễn Thị Ruông. Ăn ở với nhau mấy chục năm ông bà sinh được 4 người con, thì đứa lớn bị ảnh hưởng chất độc Da cam/dioxin.
Ông Ninh đám ma kể về quá trình bỏ nghề nông nghiệp sang làm nghề đưa tiễn những linh hồn.
Đằng đẵng gần chục năm qua, ông Ninh làm cái công việc "giời đầy" như vậy. Lâu dần, người dân trong huyện cũng quen với sự xuất hiện của ông. Họ nhận thấy sự có mặt của ông tại các đám ma là việc quá đỗi bình thường. Bởi thế, người ta mới hay gọi ông là "Người trời", "ông Ninh đám ma" hay "Người đưa tiễn những linh hồn"... ai gọi là gì ông mặc kệ. Cứ biết công việc của ông khi đến đám ma là phải làm những việc ấy. Ông Ninh bảo, khi cảm nhận được có người c.hết ở đâu mà ông không đến thì người ông sẽ mệt mỏi, ốm yếu. Đi đưa tiễn người c.hết về thì ông mới khoẻ ra.
Ông Ninh không thể giải thích được tại sao mình lại có khả năng nhận biết được người sắp c.hết như vậy. Ông kể: thủa nhỏ ông đã bị mẹ đẻ của ông cảnh báo trước là mày sau này sẽ bị "trời đầy" đấy. Rồi đến ngày 10/10/2003, ông đang cầy ruộng thì nghe thấy tiếng kèn trống đám ma ở thôn Phúc Thành - Quý Sơn, người ông tự nhiên rạo rực lên, ông bỏ cả cầy và trâu ở ruộng để chạy đến chỗ nhà có đám... . Từ khi ấy ông hầu như chẳng làm ăn được gì nữa. Trong đầu lúc nào cũng chỉ vẫn vơ suy nghĩ đến việc đưa tiễn những linh hồn.
Thời gian đầu mới làm việc này, ông Ninh phải trèo lên cây xoài cao trong vườn để nghe tiếng kèn, tiếng trống đám ma. Làm được một hai năm sau thì chẳng cần phải trèo lên cao nữa, ông chỉ cần nằm vểnh tai lên nghe và sử dụng mũi để ngửi hơi người mới c.hết cách xa nhà ông khoảng 10 km đổ lại là thấy. Còn bây giờ thì khi nào ở nhà, ông thấy tim mình đ.ập thình thịch, linh tính báo có người sắp phải từ biệc cõi trần, phạm vi trong vòng bán kính cách xa nhà ông 15 km là ông biết và chắc chắn là đúng. Có những đợt, ông Ninh đi miết 3 - 4 ngày mới trở về nhà, hết đám nhà này lại sang đám khác. Ở đám ma, chẳng khi nào người ta thấy ông ngủ. Ông cứ lầm lũi làm hết việc này đến việc khác.
Thời gian đầu thấy ông đi thế, vợ con cũng can ngăn nhưng giữ ông ở nhà không cho đi, lại thấy ông đau ốm nên đành phải chịu. Ai chưa từng tiếp xúc với ông Ninh, cứ nghĩ ông bị tâm thần, nhưng không, khi nói chuyện mới biết ông hoàn toàn minh mẫn. Ông bảo trời đưa đẩy tôi làm cái việc này, tôi nghĩ đây cũng là việc làm phúc.
Cho đến nay, ông Ninh cũng chẳng nhớ là mình đã đưa tiễn được mấy trăm "linh hồn" rồi. Chỉ biết rằng khi nào có người ở địa phương mất là không thể thiếu được mặt ông. Ông cảm thấy lòng mình thanh thản khi làm việc này. Công việc nhà đám xong xuôi, gia chủ thường biết ý biếu ông chai rượu và ít thịt làm quà, vậy là ông tâm đắc lắm... Còn những người dân ở vùng sơn cước Lục Ngạn ai ai cũng phải nể phục khả năng biết trước nơi nào người sắp mất của ông. Họ gọi ông là "Người nhà trời", "Người cõi âm" hay "ông Ninh đám ma"... . Và ông sẽ còn tiếp tục làm cái nghề này cho đến khi nào chân ông không còn bước đi được nữa.
Theo Bưu Điện Việt Nam
Người ru ngủ những cô hồn Đã 20 năm trôi qua, anh không còn nhớ nổi mình đã chôn bao nhiêu hài nhi. Cái "nghĩa địa tình thương" với hơn 32.000 ngôi mộ và anh là người nối tiếp để "nâng giấc ngủ ngàn thu" cho những sinh linh. Đối với anh Trương Văn Năng (thôn Ngọc Hồ, huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế) việc làm này như một...