Huy chương không tạo ra năng suất lao động
Sau 8 lần tham gia “Kỳ thi tay nghề giỏi các nước ASEAN”, Đoàn Việt Nam đã 3 lần giành thứ hạng cao nhất. Xét về chuyên môn, lao động Việt Nam được đánh giá là sáng tạo và có kỹ năng… Đó là những ưu điểm vượt trội của các thợ nghề Việt Nam được ASEAN cũng như thế giới công nhận. Tuy nhiên, xét về năng suất lao động, lao động Việt Nam lại hoàn toàn thất bại khi đứng áp chót trong số các nước ASEAN… Đâu là nguyên nhân dẫn đến thực trạng này?
Các thí sinh trong Kỳ thi tay nghề giỏi các nước Asean.
“Ngủ quên” trong chiến thắng
Dư âm Kỳ thi tay nghề giỏi các nước ASEAN lần thứ X tổ chức tại Việt Nam hồi tháng 10-2014 vẫn còn nguyên vẹn với các thí sinh Việt Nam khi nước chủ nhà xếp thứ nhất toàn đoàn. Thật đáng tự hào bởi kỳ thi đã quy tụ rất nhiều anh tài tới từ các quốc gia trong khối ASEAN; đề thi ngày càng khó, thí sinh phải tiếp cận công nghệ cao và xử lý những tình huống mới lạ. Những kỹ xảo nghề đỉnh cao đã được trình diễn điệu nghệ. Gần 300 thí sinh đều là lao động có “đôi bàn tay vàng” ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Vậy mà, Đoàn Việt Nam lại tiếp tục giành giải nhất toàn đoàn. Trước đó, 2 năm liên tiếp Việt Nam giành giải nhì toàn đoàn. Có thể nói, trong khu vực, Việt Nam, Thái Lan và Singapore luôn cạnh tranh trong nhóm dẫn đầu. Thí sinh Việt Nam được đánh giá là cần cù, thông minh với các ngành mũi nhọn như công nghệ ô tô, cơ điện tử, công nghệ thông tin, cắt gọt kim loại, thiết kế trang web… lao động Việt Nam cũng 3 lần tham gia kỳ thi tay nghề thế giới: Năm 2007 tại Nhật Bản, năm 2009 tại Canada và năm 2011 tại Anh. Dù chưa đạt huy chương trong một kỳ thi mang tầm vóc lớn nhưng lao động Việt Nam cũng giành 7 chứng chỉ nghề xuất sắc và thu được nhiều kinh nghiệm quý báu.
Có thể nói, các thí sinh hay nghệ nhân với những chiếc huy chương là những “hạt nhân” phát triển nghề trong tương lai. Hiện Việt Nam có 131 trường cao đẳng nghề, 309 trường trung cấp nghề, 909 trung tâm dạy nghề và hàng trăm cơ sở có tham gia dạy nghề. Mỗi năm có khoảng 2 triệu người tham gia học nghề.
Công bố của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) mới đây cho thấy, năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Cụ thể, thấp hơn Singapore gần 15 lần, Nhật Bản 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. Trong khối ASEAN, Việt Nam có mức thu nhập trung bình, chỉ bằng 1/5 Malaysia và 1/2 so với Thái Lan. Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Ngọc Phi đã từng thẳng thắn cho rằng, chiến thắng của Đoàn Việt Nam trong các kỳ thi tay nghề ASEAN là đáng khích lệ nhưng cần nhìn vào kỹ năng, trình độ, năng suất lao động của các nước trong khu vực để cố gắng chứ không nên “ngủ quên trên chiến thắng”. Sở dĩ Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Phi lo lắng là vì chúng ta có nhiều huy chương vàng, huy chương bạc, nhiều lần đứng trên bục vinh quang nhưng đáng tiếc không thể hiện được điều đó trên thực tế khi mà năng suất lao động luôn thấp hơn lao động các quốc gia trong khu vực. Lỗi này không phải do các thợ nghề mà là sự lạc hậu, yếu kém mang tính hệ thống. Đó là việc Việt Nam vẫn chưa xây dựng khung trình độ cấp quốc gia, hệ thống văn bằng cho hệ đào tạo giáo dục nghề nghiệp bị lệch so với khung trình độ tham chiếu ASEAN. Việt Nam vẫn chưa xây dựng được khung trình độ cấp quốc gia, chưa có chính sách công nhận năng lực, trình độ của người học, cũng chưa có bộ tiêu chuẩn nghề. Vì vậy, sau khi học ở cấp đại học, cao đẳng hay trung cấp nghề, học viên tự tìm kiếm công việc và tự mày mò để gia nhập thị trường lao động. Điều này vô tình đã gây lãng phí những lao động có tay nghề, có kinh nghiệm, kỹ năng. Chuyện bằng cấp liên thông không được chấp nhận ở nhiều nơi cũng do kiểm định chất lượng kém.
Và hơn hết, công nghệ, chính sách vĩ mô, quản trị doanh nghiệp của Việt Nam còn yếu. Những lo lắng của Thứ trưởng Nguyễn Ngọc Phi là có căn cứ vì trong 10 năm qua, lần đầu tiên Việt Nam có huy chương vàng nghề công nghệ thời trang (Kỳ thi tay nghề ASEAN lần thứ 10) nhưng huy chương không tạo ra năng suất kinh tế khi Việt Nam chủ yếu là may gia công, sử dụng công nghệ lạc hậu nên chưa thể nâng cao sở trường của các thí sinh đoạt giải. Đó là chưa kể hiện không có quy mô chuẩn cho ngành công nghệ thời trang nói chung. Vốn đầu tư cho phát triển KHCN, sản xuất của Việt Nam còn thấp. Vì vậy, các doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu đầu tư vào Việt Nam trong lĩnh vực chế tạo thô, công nghệ không cao, không yêu cầu lao động có kỹ thuật cao.
Ông Dương Đức Lân, Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề cho biết, nguồn lao động trẻ và dồi dào đã mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội. Trình độ kỹ năng và chuyên môn của lao động Việt Nam không có sự chênh lệch lớn với các nước trong khu vực, nhưng những hạn chế về khả năng giao tiếp, trình độ ngoại ngữ, khả năng làm việc nhóm đã ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất. Công nghệ sản xuất và kỹ năng nghề sẽ quyết định năng suất lao động. Tuy nhiên, số lao động chưa được đào tạo nghề ở nước ta còn lớn, khoảng 18-20% lao động được đào tạo (ở các nước khác là 40-50%) phải gánh năng suất bình quân cho 80% lao động chưa được đào tạo nghề. Do đó, việc đứng đầu trong các kỳ thi nhưng năng suất lao động vẫn thấp cũng là điều dễ hiểu.
Video đang HOT
Đổi mới để tăng năng suất lao động
Ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Công nghiệp và thương mại Việt Nam (VCCI) đánh giá, chất lượng nguồn nhân lực đang và sẽ là thách thức căn bản, dài hạn và gay gắt đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong việc nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh. Việc phát triển chất lượng lao động sẽ khó khăn khi hệ thống GD-ĐT chưa được chuẩn bị tốt cho quá trình chuyển đổi, thậm chí là đổi mới quá chậm. Từ năm 2012, Chính phủ đã giao cho Bộ GD-ĐT và Bộ LĐ-TB&XH xây dựng khung trình độ quốc gia. Đây được xem là “bàn đạp” quan trọng để lao động Việt Nam có thể tự tin hội nhập cùng cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Hai bộ có nhiệm vụ xác định các yêu cầu về kiến thức, năng lực mà người lao động cần đạt được ở mỗi cấp độ. Các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề phải xây dựng chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo phù hợp. Tuy nhiên, đến tháng 3-2015 bộ khung này mới được trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt, ban hành dự thảo. Theo cấu trúc của khung trình độ quốc gia của Việt Nam, có 8 trình độ từ tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng, trung cấp, chứng chỉ nghề cấp I, II, III với các chuẩn đầu ra về kiến thức, kỹ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm của người học. Đi kèm là khối lượng học tập cần có và chứng chỉ, bằng tốt nghiệp tương xứng. Trong đó, Tổng cục Dạy nghề (Bộ LĐ-TB&XH) thực hiện 5 trình độ đầu về giáo dục nghề nghiệp; Bộ GD-ĐT thực hiện 3 trình độ sau về giảng dạy.
Thực tế, dạy nghề ở Việt Nam đã có sự “đột phá”. Trước năm 2000, Việt Nam đào tạo nghề theo hình thức “có gì dạy đấy”, nhưng sau năm 2000 đã chuyển từ hướng cung sang hướng cầu. Hiện nay, 230 chương trình khung đã được ban hành, bao gồm các kiến thức kỹ năng cốt lõi được hình thành sau quá trình phân tích nghề. Chương trình khung được ban hành trên cơ sở nhu cầu, kiến thức, kỹ năng do doanh nghiệp yêu cầu. Trong năm 2014, Tổng cục Dạy nghề thực hiện các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật cho cả hệ thống theo Chiến lược phát triển dạy nghề.
Chính phủ đã yêu cầu các bộ, ngành liên quan phải cùng thực hiện đồng bộ các chương trình quốc gia, đổi mới và phát triển công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia… để đạt năng suất lao động cao hơn, ngang bằng với các nước trong khu vực. Việt Nam đã có những lợi thế nhất định với những “bàn tay vàng” trong các nghề. Họ sẽ là lực lượng trực tiếp sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Bởi vậy, không chỉ dừng ở những chiếc huy chương mà đòi hỏi phải chủ động, tích cực tiếp cận với những công nghệ, vật liệu, kỹ năng nghề mới nhất của thế giới, đổi mới sản xuất để gặt hái những quả ngọt về năng suất, thu nhập.
Theo hanoimoi.com.vn
Cải thiện năng suất lao động: Phải mang sách đi học
Chất lượng lao động hạn chế, tổ chức lao động chưa khoa học, công nghệ lạc hậu... là một trong những nguyên nhân làm năng suất lao động thấp.
Trong buổi thảo luận về tình hình kinh tế xã hội sáng ngày 30/10/2014, đại biểu Nguyễn Phi Thường (Hà Nội) cho rằng, nâng năng suất lao động là hướng đi quan trọng mang tính chất "sống còn" giúp tăng trưởng bền vững, hội nhập và cạnh tranh.
Theo đại biểu, có đến 50% lao động chưa qua đào tạo; năng suất lao động của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất ở châu Á-Thái Bình Dương. Thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật 11 lần và Hàn Quốc 10 lần. So với các nước láng giềng ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam cũng chỉ bằng 1/5 Malaysia và 2/5 Thái Lan.
Đại biểu Nguyễn Phi Thường (Hà Nội) cho rằng, nâng năng suất lao động là hướng đi quan trọng mang tính chất "sống còn" giúp tăng trưởng bền vững, hội nhập và cạnh tranh
Đào tạo thiên về dạy lý thuyết
Đại biểu Nguyễn Phí Thường lý giải, nguyên nhân đầu tiên chính là chất lượng lao động. Lao động Việt Nam còn khá nhiều điểm hạn chế như lực lượng lao động tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo.
Tỷ trọng lao động làm việc trong nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản lớn, trong khi năng suất lao động của nhóm ngành này chỉ bằng 45% năng suất lao động chung, bằng 25% công nghiệp- xây dựng, bằng 36% dịch vụ.
Lao động Việt Nam còn khá nhiều điểm hạn chế như lực lượng lao động tuy đông về số lượng nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, ít qua đào tạo.
Hệ thống giáo dục đào tạo thiên về dạy lý thuyết hơn là kỹ năng. Thiếu vắng từ đội ngũ quản lí doanh nghiệp trình độ cấp cao đến đội ngũ kỹ thuật viên, thợ cả có tay nghề...
Cùng với sự chưa nhịp nhàng giữa "cung" của giáo dục và "cầu" của thị trường và những bất cập của hệ thống đào tạo đại học hàng năm có hàng chục ngàn sinh viên ra trường không có việc làm. Cho nên mới có thủ khoa đi làm thợ mộc, kỹ sư làm xe ôm hay cử nhân làm giúp việc gia đình.
Việc tổ chức lao động chưa khoa học, doanh nghiệp phần nhiều quản trị theo thói quen và khá tùy tiện. Năng lực cạnh tranh chưa được chú trọng đúng mức, nhiều doanh nghiệp cạnh tranh chủ yếu bằng giá. Lợi thế độc quyền khiến một số doanh nghiệp chỉ cần tăng giá để tăng lợi nhuận thay vì tăng năng suất.
Bộ máy hành chính cồng kềnh và hiệu quả, năng suất lao động thì như có ý kiến đã nêu là có "1/3 công chức cắp ô" tiêu tốn một nguồn chi thường xuyên khồng lồ của ngân sách.
Đại biểu chỉ nguyên nhân khác, đó là do công nghệ lạc hậu. Trình độ công nghệ hiện đang sử dụng ở Việt Nam thấp hơn tương đối nhiều so với các nước trong khu vực. Hàm lượng công nghệ các ngành xuất khẩu của Việt Nam hầu như không thay đổi sau 10 năm.
Tỷ trọng các ngành sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm 12-13%, công nghệ trung bình khoảng 10%, công nghệ thấp chiếm trên 60%, trong khi các quốc gia khác trong khu vực đều có các ngành công nghệ trung, cao chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu xuất khẩu. Điều này phản ánh sự tụt hậu khá xa của Việt Nam về năng lực cạnh tranh công nghệ.
"Chỉ có con đường học hỏi"
Theo đại biểu, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo. Nhanh chóng đổi mới hơn nữa hệ thống giáo dục - đào tạo để sản phẩm đầu ra là đội ngũ lao động có trình độ, kỹ năng, đạo đức, văn hóa văn minh và bản lĩnh vượt khó.
Ông dẫn chứng: "Ở đây tôi muốn nhắc đến đất nước Nhật Bản, tôi cho rằng đó là mô hình đáng học hỏi. Ở Nhật Bản học sinh được dạy trong trường học rằng đất nước Nhật Bản nhiều thiên tai, không có tài nguyên thiên nhiên, chỉ có duy nhất tài nguyên là con người Nhật Bản".
Do đó chỉ có con đường học hỏi, rèn luyện bản lĩnh vượt khó khăn đưa đất nước phát triển. Nhờ vào nguồn nhân lực mà đất nước Nhật Bản có sự vùng lên, phát triển diệu kỳ sau khi thua cuộc và bị tàn phá trong thế chiến thứ 2.
Bên cạnh đó, thực hiện kế hoạch chuyển dịch cơ cấu lao động sang các ngành kinh tế phi nông nghiệp và thực hiện chiến lược tổng thể về xây dựng kỹ năng cho người lao động.
Trong đó, Chính phủ giữ vai trò xây dựng khung chính sách nhằm tạo sự kết nối chặt chẽ hơn giữa các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề với người lao động, doanh nghiệp; tăng chất lượng thông tin, tạo động lực khuyến khích mạnh mẽ hơn nhằm giúp người lao động lựa chọn các ngành nghề và được đào tạo kỹ năng phù hợp với công việc hiện đại.
Ngoài ra, phải tăng cường đầu tư thực chất và hiệu quả cho phát triển khoa học công nghệ. Hiện tại, công nghệ, máy móc thiết bị nhập khẩu vào Việt Nam phần lớn là ở mức trung bình và lạc hậu, bởi vậy, việc nhập khẩu công nghệ, máy móc, thiết bị cần theo định hướng là công nghệ nguồn từ các nền kinh tế phát triển.
Theo D. Tùng (Khám phá)
Đại biểu lý giải vì sao khó tăng lương trong thời gian tới - Nếu ép tăng lương duy ý chí kiểu hành chính sẽ làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế của doanh nghiệp và tăng áp lực thất nghiệp, dư thừa lao động phổ thông Phát biểu tại phiên thảo luận về tình hình kinh tế xã hội sáng nay 30/10, đại biểu Nguyễn Thị Hồng Hà tập trung vào vấn đề...