Hướng nào cho đổi mới mô hình đào tạo giáo viên?
Phân tích thực trạng các mô hình đào tạo giáo viên (GV) ở Việt Nam, GS.TS Nguyễn Quý Thanh – Hiệu trưởng Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) – đồng thời đưa ra một số đề xuất phát triển mô hình đào tạo GV mới, đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Ảnh minh họa
Đào tạo giáo viên bộc lộ bất cập
GS.TS Nguyễn Quý Thanh cho biết: Mô hình đào tạo sư phạm (SP) theo phương thức truyền thống (mô hình tích hợp) ở nước ta có nguồn gốc từ mô hình các trường đào tạo SP ở Liên Xô cũ và Trung Quốc, do nhiều nhà SP, nhà giáo dục hàng đầu của Việt Nam được đào tạo tại các môi trường này.
Đặc trưng tiêu biểu của mô hình tích hợp là “vào SP, ra SP”, với việc giảng dạy tích hợp giữa kiến thức chuyên môn và nghiệp vụ SP. Mô hình này có ưu điểm là giáo sinh được trang bị trực tiếp những kiến thức, kĩ năng về chuyên môn, nghiệp vụ đúng với những gì mà họ sẽ phải dạy sau khi ra trường. Giáo sinh cũng có điều kiện hình thành “tình yêu nghề nghiệp sớm” ngay từ năm thứ nhất.
Tuy nhiên, mô hình nói trên cũng bộc lộ nhược điểm khi kiến thức luôn gia tăng nhanh chóng và kỹ năng thay đổi khá thường xuyên để phù hợp với những đòi hỏi mới. Thí dụ, hàng năm các địa phương, nhà trường cập nhật, điều chỉnh một tỷ lệ nhất định trong chương trình cho phù hợp với điều kiện mới, xu thế công nghệ mới. Việc đào tạo bám chặt nội dung của chương trình phổ thông, khi chương trình thay đổi sẽ khiến cho nhiều GV khó khăn.
Trên giảng đường Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Ảnh: Internet
Cùng với quá trình hội nhập về kinh tế, giáo dục ĐH cũng mở ra và tiếp nhận những mô hình khác nhau. Đầu những năm 2000, mô hình đào tạo giáo viên trong các trường ĐH đa ngành ở nước ngoài bắt đầu được giới thiệu và du nhập vào Việt Nam. Mô hình này tạm gọi là mô hình tiếp nối a b.
Đặc trưng nổi bật của mô hình này là “vào ngành a, ra ngành b”. Theo đó, GV được đào tạo ở các “trường giáo dục”
(college of education) trong các trường ĐH đa ngành có các khoa, trường khoa học cơ bản hoặc nhân văn. Nhiều trường ĐH đa ngành lớn trên thế giới đều có các trường đào tạo GV phổ thông trong cơ cấu. Sinh viên muốn được cấp bằng cử nhân giáo dục (để sau có thể đi dạy), cần phải học và tích lũy đủ tín chỉ ở các trường (về Toán, Khoa học hoặc Nhân văn), đồng thời cũng phải học và có đủ tín chỉ về các khoa học giáo dục và rèn luyện nghiệp vụ giảng dạy.
Mô hình này còn được thúc đẩy theo hướng học xong cử nhân một ngành, rồi mới học về khoa học giáo dục nói chung, giáo học pháp nói riêng lấy bằng cử nhân, hoặc “diploma” để đi dạy phổ thông, hay học thẳng lên trình độ thạc sĩ về dạy học. Ưu điểm của mô hình là sinh viên có hiểu biết rất căn bản về kiến thức chuyên môn của môn dạy, đồng thời cũng được trang bị các kĩ năng nghiệp vụ phù hợp, từ đó họ có thể linh hoạt và có sức bật khá tốt trong phát triển, tiếp nhận thêm những kiến thức mới.
Tuy nhiên, nó cũng có nhược điểm là nhiều khi tình yêu nghề SP không được định hình rõ và chưa đủ sâu sắc. Bên cạnh đó, đôi khi do sự tách biệt các chủ thể đào tạo, cho nên các khối kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ chưa được gắn kết thực sự nhuần nhuyễn với nhau.
Hiện nay, do yếu tố lịch sử như trên, ở Việt Nam tuyệt đại đa số GV phổ thông được đào tạo theo mô hình “tích hợp”, trong khi chỉ có Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội) triển khai theo mô hình nối tiếp a b.
Video đang HOT
GS.TS Nguyễn Quý Thanh cho rằng, hai mô hình đều có ưu và nhược điểm, đều đang phải đối diện với bài toán sinh viên ra trường thiếu kỹ năng đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động liên tục biến đổi.
GS.TS Nguyễn Quý Thanh
Mô hình đào tạo giáo viên nào là phù hợp?
Dù theo mô hình nào, việc đào tạo GV phổ thông hiện nay, theo GS Nguyễn Quý Thanh, cũng cần cập nhật các xu hướng quốc tế trong cải cách giáo dục và đào tạo GV là chuyển từ giáo dục truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực, theo chuẩn đầu ra. Chính vì vậy, mô hình đào tạo giáo viên cần thay đổi sao cho giáo sinh tăng cường được năng lực hành nghề ngay sau khi ra trường, nhưng đồng thời cũng được trang bị “khả năng học tập suốt đời” chứ không chỉ là “học được cái gì”.
Do đó, mô hình theo hướng “tích hợp”, hay “nối tiếp a b” thì cũng đều cần tăng thêm thời gian luyện nghề. Khẳng định điều này, GS.TS Nguyễn Quý Thanh nhấn mạnh, việc “luyện nghề” này không phải là thực tập SP theo cách hiểu hiện nay, mà theo đó giáo sinh sẽ phải làm việc gần như một GV thực thụ với mọi chức năng và nhiệm vụ.
Chia sẻ cách làm của Trường ĐH Giáo dục (ĐHQG Hà Nội), GS.TS Nguyễn Quý Thanh cho biết: Vì Trường ĐH Giáo dục đang thực hiện theo mô hình nối tiếp a b, nên sẽ tập trung cải tiến mô hình này. Các căn cứ nhà trường dựa vào là Khung trình độ quốc gia, Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể và chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông. Ba hướng nhà trường đang nghiên cứu để cải tiến như sau:
Thứ nhất: Tăng cường rèn nghề thêm 6 tháng. Hướng này chủ yếu tăng thời gian đào tạo từ 4 năm, thành 4,5 năm để tăng thêm các trải nghiệm nghề nghiệp tại trường phổ thông. Sau khi hoàn thành các môn chuyên môn nghiệp vụ, giáo sinh sẽ được cử về các trường để luyện nghề 6 tháng, nếu hoàn thành đạt yêu cầu mới được cấp bằng. Hướng này không có nhiều sự đột phá, nhưng cũng sẽ giúp việc tăng cường kỹ năng nghề nghiệp cho giáo sinh.
Thứ hai: Song bằng cử nhân khoa học và cử nhân SP. Hướng này tăng thêm thời gian học 0,5 năm, tập trung cho các phần kiến thức khai phóng. Tổng thời gian đào tạo chuẩn là 5 năm. Sau khi học xong khoảng 3 năm chuyên môn cơ bản, 1 năm về nghiệp vụ và khoa học giáo dục, 0,5 năm học khai phóng và 0,5 năm luyện nghề, sinh viên được cấp bằng cử nhân khoa học liên quan đến môn cơ bản đã học, đồng thời được công nhận toàn bộ các tín chỉ này là tín chỉ tích lũy cho chương trình cử nhân SP.
Trường ĐH Giáo dục có thể công nhận tín chỉ, bằng cấp của những trường đào tạo khoa học cơ bản có chất lượng trong nước và quốc tế nếu người học đăng ký vào chương trình đào tạo giáo viên theo hướng này. Cách này đáp ứng được khả năng chuyển đổi nghề khi nhu cầu giáo viên không có đủ vị trí việc làm; tạo thuận lợi cho việc phát triển và học lên theo nhiều hướng khác nhau.
Thứ ba: Phối hợp lên thạc sĩ giảng dạy. Việc đào tạo thẳng lên thạc sĩ giảng dạy cũng đã có kinh nghiệm quốc tế, thí dụ ở Pháp. Hướng này nhằm giải quyết vấn đề nâng chuẩn đào tạo của GV phổ thông trong tương lai, hoặc việc một số trung tâm giáo dục lớn của Việt Nam như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có thể muốn GV của mình có trình độ cao hơn mặt bằng chung của cả nước. Hướng phối hợp này, ngoài 4,5 năm như hướng thứ nhất, có thêm 1,5 năm để hoàn thành chương trình nghiên cứu bậc thạc sĩ. Tổng thời gian đào tạo chuẩn là 6 năm, tốt nghiệp được cấp bằng thạc sĩ SP/giảng dạy và có thể xem xét cấp bằng cử nhân SP. Hướng này tăng khả năng liên thông, chuyển đổi, khả năng luyện nghề, đồng thời đáp ứng nhu cầu học lên cao của người học.
“Kết quả điều tra xã hội học bước đầu với học sinh THPT cho thấy xã hội có sự quan tâm đến hướng thứ 2 và thứ ba. Đây chính là một căn cứ quan trọng nữa để Trường ĐH Giáo dục tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện đề xuất mô hình đổi mới đào tạo GV trong ĐHQG Hà Nội và các đơn vị bạn tham khảo và mở rộng” – GS.TS Nguyễn Quý Thanh cho hay.
Hiếu Nguyễn
Theo GDTĐ
Đào tạo giáo viên trực tuyến cho chương trình phổ thông mới
Bộ trưởng GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ cho biết đào tạo giáo viên và chuẩn bị cho cơ sở vật chất là hai yếu tố then chốt để hiện thực thành công chương trình giáo dục phổ thông mới.
Đào tạo giáo viên, thiếu cơ sở vật chất, sĩ số lớp hiện tại quá đông... là những vấn đề được nêu ra tại hội nghị triển khai thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới do Bộ GD&ĐT tổ chức chiều 9/1.
Giáo sinh phải được "nhúng" vào môi trường sư phạm
Về đào tạo giáo viên, GS Nguyễn Văn Minh - Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Hà Nội - cho hay các trường sư phạm đã quan tâm vấn đề này từ lâu, khi chương trình giáo dục phổ thông mới bắt đầu xuất hiện, trong đó chú trọng thay đổi về cách dạy, học, kiểm tra đánh giá và các môn học mới.
"Một mặt chúng ta lo về đội ngũ giáo viên khi chuẩn bị chương trình mới nhưng mặt khác yên tâm vì các trường sư phạm đã chuẩn bị. Khó nhưng chắc chắn sẽ làm được vì sự tâm huyết và nỗ lực của thầy cô", GS Minh nói.
GS Nguyễn Văn Minh - Hiệu trưởng ĐH Sư phạm Hà Nội - cho hay vấn đề đào tạo giáo viên khó khăn nhưng quyết tâm chắc chắn thực hiện được. Ảnh: Q.Q.
Theo GS Minh, giáo viên sẽ được bồi dưỡng từ tổng thể đến từng môn học, trước hết thực hiện cho sinh viên của các trường đại học sư phạm, sau đó kết nối với địa phương thông qua trường cao đẳng. Hiện tại, thầy cô đều sử dụng smarphone, mạng Internet nên việc bồi dưỡng trực tuyến rất tiện lợi.
Phát biểu về vấn đề này, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho hay ban chỉ đạo chương trình giáo dục phổ thông mới đã giao nhiệm vụ cho các trường sư phạm, cơ sở đào tạo giáo viên để đồng hành và xây dựng, triển khai chương trình ngay từ đầu. Giai đoạn này, ban chỉ đạo đề nghị các địa phương không được sắp xếp, sáp nhập các trường để đảm bảo đào tạo lại và bồi dưỡng cho giáo viên kịp thời.
"Giáo sinh phải được 'nhúng' vào môi trường giáo dục để thấy và hiểu được cuộc sống trong trường học, học sinh, đồng nghiệp, khi các em ra trường sẽ có kiến thức thực tế hơn", Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nói.
Thiếu hàng nghìn phòng học
Theo ông Phạm Hùng Anh, Cục trưởng Cục cơ sở vật chất, Bộ GD&ĐT, cả nước hiện có hơn 567 nghìn phòng học. Trong đó, số phòng học kiên cố khoảng 424.757, tỷ lệ kiên cố khoảng 75%. Cấp mầm non là 64,9%; tiểu học 72,2%; THCS 83,4%; THPT 93,9%.
Riêng vùng miền núi phía Bắc, Tây nguyên, Tây Nam bộ, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa còn thấp hơn nữa. Cá biệt, vùng Tây nguyên, tỷ lệ phòng học kiên cố hóa bậc mầm non chỉ đạt dưới 45%.
Ông Phạm Hùng Anh, Cục trưởng Cục cơ sở vật chất, thông tin Bộ GD&ĐT đặt ra mục tiêu từng bước giải quyết sự thiếu hụt cơ sở vật chất khi triển khai chương trình mới. Ảnh: Q.Q.
Với chương trình hiện hành, thiết bị dạy học tối thiểu ở nhiều nơi không đáp ứng yêu cầu. Cả 3 khu vực khó khăn là vùng miền núi phía Bắc, Tây nguyên và Tây Nam bộ, thiết bị dạy học tối thiểu đều chưa đáp ứng được 50% nhu cầu.
Ông Nguyễn Minh Tường, Giám đốc Sở GD&ĐT Phú Thọ, thông tin địa phương này đã rà soát toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất - thiết bị để chuẩn bị triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới.
Tổng nhu cầu kinh phí cần để đầu tư cơ sở vật chất, mua sắm thiết bị triển khai chương trình mới của tỉnh Phú Thọ là hơn 8.000 tỷ đồng, trong đó ưu tiên đầu tư cấp tiểu học. Cấp học này, để triển khai chương trình mới lớp 1, năm học 2020-2021, cần bổ sung 436 phòng học, 228 phòng máy tính và 5.500 máy vi tính. Nhu cầu như vậy đối với một tỉnh miền núi như Phú Thọ là rất khó khăn. Dù vậy, địa phương cũng cố gắng chuẩn bị các điều kiện tốt nhất để triển khai chương trình mới đạt hiệu quả.
Ông Phạm Hùng Anh cho biết Bộ GD&ĐT đặt ra mục tiêu từng bước giải quyết sự thiếu hụt cơ sở vật chất khi triển khai chương trình mới. Về phòng học, cấp tiểu học bảo đảm 1 lớp/phòng để học 2 buổi/ngày. Cấp THCS, THPT bảo đảm yêu cầu tối thiểu 0,6 lớp/phòng để tổ chức học các môn tự chọn.
Với thiết bị dạy học, Bộ GD&ĐT sẽ sửa đổi, bổ sung danh mục theo lộ trình thực hiện chương trình mới trên nguyên tắc kế thừa thiết bị đã có, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và các phần mềm thay thế thiết bị chứng minh, phù hợp xu hướng phát triển của khoa học công nghệ hiện nay.
Dự kiến quý I/2019, Bộ GD&ĐT sẽ ban hành danh mục thiết bị tối thiểu lớp 1 để chuẩn bị cho triển khai chương trình đối với lớp 1 năm học 2020 - 2021; ban hành danh mục thiết bị dạy học tối thiểu cho các lớp còn lại theo lộ trình đổi mới chương trình, sách giáo khoa trong quý I/2020. Bộ yêu cầu các địa phương rà soát, thống kê, xác định nhu cầu đầu tư về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, xác định nhu cầu đầu tư giai đoạn 2017-2020.
Thành phố lớn lo lắng sĩ số học sinh quá cao
Phát biểu tại hội nghị, ông Chử Xuân Dũng, Giám đốc Sở GD&ĐT Hà Nội, đề nghị Bộ GD&ĐT nên sớm công bố bộ sách giáo khoa mẫu để giáo viên và các trường chủ động tự nghiên cứu, hình dung cụ thể về chương trình mới, giảm những ý kiến băn khoăn, thắc mắc.
Người đứng đầu ngành giáo dục thủ đô bày tỏ mong muốn Bộ GD&ĐT sớm ban hành các quy định tối thiểu về cơ sở vật chất trường học, các phòng học bộ môn, trang thiết bị dạy học... để UBND các tỉnh, thành phố có thời gian nhất định để chuẩn bị, triển khai hiệu quả.
Hà Nội là thành phố chịu áp lực về sĩ số học sinh lớn, có lớp học lên đến 60 em. Vì vậy, Sở GD&ĐT Hà Nội mong muốn Bộ GD&ĐT có những chia sẻ và biện pháp để cơ sở vật chất trường lớp đảm bảo khi thực hiện chương trình mới.
Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ cho hay với các thành phố lớn, lớp học có sĩ số quá đông, Bộ GD&ĐT đang phối hợp Bộ Xây dựng để điều chỉnh chuẩn quy định nhà trường cho phù hợp và khả thi.
Tuy nhiên, địa phương vẫn phải chủ động vì với tốc độ nhà cao tầng ngày càng nhiều thì giải pháp cũng không thể phù hợp nếu không có quy hoạch trường lớp đồng bộ.
Theo Bộ GD&ĐT, chương trình giáo dục phổ thông mới chia thành hai giai đoạn là giáo dục cơ bản (từ lớp 1 đến 9) và giáo dục định hướng nghề nghiệp (lớp 10 đến 12).
Theo GS Nguyễn Minh Thuyết, Tổng chủ biên chương trình giáo dục phổ thông mới, theo mô hình đang áp dụng, học sinh phải học và ghi nhớ nhiều, trong khi khả năng vận dụng thực tế hạn chế.
Với chương trình mới, giáo dục không phải để truyền thụ kiến thức mà nhằm giúp học sinh hoàn thành công việc, giải quyết các vấn đề trong học tập và đời sống nhờ vận dụng hiệu quả, sáng tạo kiến thức đã học.
Chương trình này sẽ được áp dụng từ năm học 2020-2021 đối với lớp 1; năm học 2021-2022 với lớp 2 và lớp 6; năm học 2022-2023 với lớp 3, 7 và 10; năm học 2023-2024 với lớp 4, 8, 11; năm học 2024-2025 với lớp 5, 9 và 12.
Chương trình giáo dục phổ thông mới áp dụng 6 biện pháp "giảm tải". Đó là giảm số môn học và hoạt động giáo dục; giảm số tiết học; giảm kiến thức kinh viện; tăng cường dạy học phân hóa - tự chọn; thực hiện phương pháp dạy học mới; đổi mới đánh giá kết quả giáo dục.
Theo Zing
Môn giáo dục công dân mới dạy gì? Môn giáo dục công dân lâu nay vốn được ví như cái 'bị' chứa tất cả những nội dung cần bổ sung vào chương trình giáo dục phổ thông, từ giáo dục đạo đức lối sống đến hiểu biết chính trị, pháp luật, trong khi việc đào tạo giáo viên thì chưa theo kịp. Một giờ học tích hợp môn giáo dục công...