Hủ tục Ma lai và những cái c.hết bi thảm
Đồng bào Tây Nguyên nghìn đời đã tạo dựng kho tàng văn hóa quý giá, nhưng bên cạnh những giá trị tích cực, còn đó mảng tối tâm linh đày đọa nhiều phận người bi thảm nhất. Ma lai là một minh chứng.
Trong số những nhà “ Tây Nguyên học” nổi tiếng người Pháp mà nhà văn Nguyên Ngọc đã dày công sưu tầm, dịch và giới thiệu, đặc biệt nhất là cuộc đời và tác phẩm của nhà truyền giáo, nhà nhân chủng học Jacques Dournes (1922-1993). Từ những sổ tay ghi chép tỉ mỉ ròng rã suốt 25 năm sống trong những buôn làng người Thượng, khi trở về Pháp Jacques Dournes vẫn đóng khố cởi trần, miệt mài viết tới hàng trăm cuốn sách về Tây Nguyên.
Những người cao niên sống ở Cheoreo (tỉnh Gia Lai) kể, họ từng thấy Jacques Dournes đóng khố, mang ớt, cà pháo… ra chợ ngồi bán. Ở với dân, họ ăn gì ông ăn đó. Họ đi đâu, ông theo đó. Vai mang gùi, ông theo đồng bào lên rẫy, họ kể gì, ông cũng chăm chú lắng nghe và ghi chép. Ông có lẽ là nhà nghiên cứu đầu tiên tìm hiểu và phản ánh sâu sắc cội nguồn của hiện tượng Ma lai.
Trong cuốn “Rừng, đàn bà, điên loạn”, Nguyên Ngọc dịch từ nguyên bản tác phẩm “Forêt, Femme, Folie” của Jacques Dournes, tác giả đã dành nhiều trang, nhiều đoạn viết về sự mê tín của nhiều tộc người Tây Nguyên đối với truyền thuyết Ma lai mà đồng bào gọi là Rohung – ác thần chỉ biết hủy hoại, khát m.áu, thích ăn t.hịt n.gười.
Theo truyền thuyết này, những kẻ trong khi thụ giáo nghề phù thủy lỡ phạm vào điều cấm kỵ, hoặc bị quỷ nhập, có thể bị biến thành Ma lai. Lúc đó, họ bị mọc một cái mồng trên đầu và chuyên đi ăn cuộc sống của người khác. Do cái mồng dễ phát hiện, Ma lai bị t.àn s.át nên đã v.an x.in Trời cho mất cái mồng đi. Từ đó, Ma lai ẩn náu trong thân x.ác n.gười bình thường khó phân biệt. Về đêm, Ma lai lang thang đi g.iết n.gười để ăn thịt, hoặc rỉa t.ử t.hi. Khi có tiếng chim lợn kêu, người ta tin đó là Ma lai đang cưỡi chim lợn và làng ắt có người c.hết…
Định kiến Ma lai tệ hại đến mức bất cứ kẻ nào trong buôn làng bị cộng đồng tình nghi là Ma lai, mọi tai họa oán thù sẽ đổ lên đầu người đó khiến số phận của họ trở nên bất hạnh khôn cùng.
Nguyên Chánh án TAND tỉnh Đăk Lăk Ama Bhiăng: “Sự mê tín rất nguy hiểm”. Ảnh: T.iền phong.
Ông Ama Bhiăng, nguyên Chánh án TAND tỉnh Đăk Lăk cho hay, người ta toàn đồn thổi, truyền miệng từ đời này sang đời khác, chứ có ai thực thấy Ma lai thế nào đâu. Người ta cô lập, ghẻ lạnh với người bị nghi Ma lai. Thời ông làm chánh án, có lần huyện Đăk Nông xảy ra vụ án g.iết n.gười nghiêm trọng vì hủ tục này. Một trung niên nghi đôi vợ chồng già nọ là Ma lai hại người, đã g.iết cả 2 cụ rồi cột đá n.ém x.ác xuống sông. Đáng t.ử h.ình, nhưng xét anh ta phạm tội chỉ vì mê tín nên tòa giảm xuống chung thân.
Nhà báo Kpă Simon, dân tộc Jơ Rai, Phó giám đốc Đài TNVN khu vực Tây Nguyên chia sẻ, từng nhiều năm ở huyện Ayun Pa, tỉnh Gia Lai, anh thấy phần đông đồng bào vùng này vẫn đồn Ma lai gắn liền với thuốc thư, hễ muốn hại ai chỉ cần lấy thuốc thư yểm bùa, hoặc dùng râu mép con cọp c.hết đốt thành tro, chấm vào ly rượu mời ai uống người đó sẽ c.hết.
Loài chim lợn quan hệ mật thiết với Ma lai nên chim lợn bay đảo quanh ở nhà nào, nhà đó kinh sợ hồn xiêu phách tán. Nhiều người bị kẻ đố kỵ vu oan là Ma lai cũng chỉ bởi xinh đẹp, sang giàu. Đồng bào Sê Đăng thường kể cho con cháu nghe chờ đêm khi buôn làng ngủ say, Ma lai mới rút đầu khỏi thân, lôi theo chùm ruột bay đi ăn t.hịt n.gười. Dù chỉ nghe kể, không thấy nhưng bọn trẻ cũng sợ, cũng tin.
Video đang HOT
Cũng vì tin vào Ma Lai mà không ít vụ án trọng án đã xảy ra. Tại làng Đăk Yă, xã Đăk Yă (Mang Yang, Gia Lai), năm 2007 trong làng có 2 thanh niên tên Duân và Kel tính tình ngỗ ngược, hay rủ nhau trộm cắp. Có lần bạn bè khuyên nhủ, Duân và Kel sừng sộ bảo: “Chúng tao đi ăn cắp của làng khác, chúng mày xen vào làm gì!? Từ nay, đứa nào ngăn cản, chúng tao sẽ thư chết!”.
Một tuần sau, một phụ nữ mạnh khỏe trong làng là bà H’Blin bỗng lăn ra ốm c.hết. Nghi bà H’Blin bị thư, tối 10/3 hàng chục thanh niên kéo đến nhà Duân đ.ập p.há tan hoang, sau đó đ.ánh c.hết Duân kéo xác vứt vào khu nhà mồ, rồi tiếp tục kéo nhau đi đ.ánh c.hết cả Kel cùng cha ruột là ông H’Nhêu đã 76 t.uổi, khi họ đang làm rẫy.
Vụ án chấn động dư luận được xác định là án điểm, phải xử nhanh, xử đúng trước đông đảo công chúng để giáo dục, răn đe. Ngay trong năm 2007, Tòa án huyện Mang Yang đã đưa 7 thanh niên phạm tội g.iết n.gười và hủy hoại tài sản công dân ra xử, tuyên 6 người chịu án 7 năm tù. Riêng mức án nặng nhất, 9 năm tù, thuộc về kẻ cầm đầu H’Lin, chính là Bí thư chi đoàn của làng Đăk Yă.
Năm 2012, tai bay vạ gió đổ xuống đầu bố con ông Khách ở làng Jơ Long, xã Hà Ra, huyện Mang Yang. Vốn không ưa ông Khách, chỉ mấy tháng đầu năm trong làng có tới 4 người c.hết và 5 người bệnh nặng, dân làng bèn quy tội Ma lai – thuốc thư cho ông Khách và 6 đứa con. Mặc dù những cái c.hết đều có nguyên nhân rõ ràng, nhưng đã nhiều lần dân làng đe dọa sẽ đ.ánh c.hết cha con ông Khách, may chính quyền kịp thời can thiệp.
Thê thảm nhất, là số phận ông A Thun, người dân tộc Ba Na ở làng Đăk Rao Nhỏ, xã Pô Kô, huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum. Từ nguồn tin ban đầu về cái c.hết bất thường của ông A Thun, cơ quan điều tra đã khai quật t.ử t.hi. Kết quả cho thấy A Thun đã bị đ.ánh và s.iết c.ổ tới c.hết, thế nhưng vợ con ông trước sau vẫn khăng khăng khai chồng, cha mình buồn nên thắt cổ chết! Các trinh sát cố công tìm hiểu, cuối cùng mới có n.hân c.hứng dè dặt tiết lộ: A Thun bị dân làng đuổi ra rừng, g.iết c.hết vì là Ma lai!
Buổi kiểm điểm những thanh niên mê tín quá khích ở làng Ktu. Trong số đó, có cả đoàn viên thanh niên. Ảnh: T.iền phong.
Vụ án dần sáng tỏ, trong một tiệc cưới, A Thun đã cãi nhau và lỡ tay tát ông A Táo ở cùng làng. Dù ngay sau đó 2 người đàn ông đã bắt tay làm hòa nhưng hôm sau, A Táo đau bụng dữ dội rồi qua đời. Mặc dù các bác sĩ khẳng định A Táo c.hết do ngộ độc rượu, nhưng mối nghi ngờ A Thun là Ma lai đã loan khắp làng. Người ta suy diễn A Thun đã dùng “thuốc thư” g.iết c.hết A Dong và Y Dôt vài năm về trước, vì 2 người đó bệnh nặng, cúng Yàng hết mấy con trâu, con bò nhưng vẫn không khỏi.
Già làng tổ chức họp khẩn cấp, buộc A Thun nghe cả làng “đấu tố”. Bị dồn ép, A Thun vừa nhận mình là Ma lai, liền bị lũ làng kéo đến đốt nhà, đuổi ra khỏi làng. Cùng đường, A Thun đưa vợ con đến ở tạm tại chòi rẫy trên nương, đợi khi sự việc lắng xuống. Nào ngờ ngay sáng hôm sau, dân làng lại lũ lượt kéo đến chòi, buộc A Thun phải giao “thuốc thư” ra mới mong được sống.
A Thun q.uỳ l.ạy dân làng, thề độc mình không phải là Ma lai, không có thuốc thư, nhưng vẫn bị đám đông quá khích tròng dây mây vào cổ kéo ra con suối cạnh làng, đ.ánh cho đến c.hết, rồi căn dặn vợ con A Thun “Hễ ai hỏi phải nói A Thun t.ự t.ử, nếu không cả nhà sẽ bị giết!”.
Hay như chuyện Yin ở làng Ktu, xã Chứ Á. Yin chơi thân với H’Mơ cùng làng. Khi nghe H’Mơ bị bệnh nặng với kết quả chẩn đoán tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Gia Lai là xuất huyết tủy, tràn dịch xuất huyết não, Yin đến hỏi han an ủi. Không ngờ vài ngày sau H’Mơ c.hết. Dân làng lại rộ lên tin đồn H’Mơ bị bỏ “thuốc thư”.
Hậu quả là giữa tháng 4/2013, Yin bị một nhóm thanh niên trong làng kéo tới nhà h.ành h.ung, phải đưa đi bệnh viện cấp cứu. Ngành công an đã kết hợp với chính quyền địa phương đưa các thủ phạm ra kiểm điểm trước dân. Tại buổi kiểm điểm, sau khi được nghe phân tích Ma lai – thuốc thư chỉ là hủ tục mê tín, nhóm thanh niên hứa sẽ không tái phạm, không tin vào Ma lai – thuốc thư nữa…
Theo VNE
Hủ tục rùng rợn giữa thâm sơn cùng cốc
Lối sống hồn nhiên, bản năng hết mình cộng với tư duy đơn giản của đồng bào Tây Nguyên xa xưa đã sinh ra hủ tục hà khắc trong những buôn làng biệt lập giữa thâm sơn cùng cốc.
"Dọ-tơm-amí" và "Joă ană" (chôn con theo mẹ và đạp cho c.hết) là 2 hủ tục hoang dã gây nên nhiều cái c.hết oan khốc cho trẻ sơ sinh. Khởi nguyên, tục "dọ tơm amí" chỉ quẩn quanh trong một số buôn làng của đồng bào Bana, Jơ rai, Jẻ Triêng, những sắc tộc bản địa đông đúc sinh sống lâu đời trên cao nguyên Gia Lai - Kon Tum, phía bắc Tây Nguyên. Nhưng sau đó, theo những nhóm người ly tán, giao thoa, tục "dọ tơm amí" lan nhiễm qua cả những cộng đồng Xêđăng, S'rá, và vài nhánh Ê đê ở những vùng nghèo khó nhất.
Theo hủ tục này, nếu người mẹ chẳng may c.hết khi vượt cạn thì trẻ sơ sinh phải bị bỏ xuống huyệt chôn theo mẹ. Trẻ đã vài tuần, thậm chí đầy tháng t.uổi mà mẹ ốm c.hết vì kiệt sức, hậu sản, thì đ.ứa t.rẻ cũng bị c.hôn s.ống theo, hoặc bị vứt bỏ giữa bãi tha ma cho c.hết mòn, cho thú dữ ăn thịt.
Buôn làng càng thiếu thốn lạc hậu, hủ tục càng phổ biến vì đồng bào không biết cách nuôi dưỡng hài nhi thiếu sữa mẹ, luôn tin đ.ứa b.é đã làm cho mẹ c.hết cần phải theo mẹ về cõi ma mới mong được chăm sóc tốt hơn... Trên nhiều ngôi mộ chôn chung những đôi mẹ con tội nghiệp người Ba Na, Jơ rai, Jẻ Triêng, nghệ nhân vẫn tạc tượng nhà mồ tạo hình mẹ ôm con, mẹ cõng con chan chứa tình thương nhưng trĩu nặng thảm sầu.
Nhà Rông ở Kon Tum. Ảnh: T.iền phong.
Văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Tây Nguyên tôn trọng quyền tự do yêu đương, chọn lựa bạn đời của các đôi trai gái, trừ trường hợp mặc định từ đầu không thể kết hợp sẽ bị cả gia tộc cấm đoán. Đồng bào Jơ Rai vùng Ia Le huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai trước kia có tục "ngă mit", ngă là làm, mit là đêm tối, cho phép con gái vào t.uổi dậy thì được tự do chọn lựa ý trung nhân. Nếu cô gái đã lỡ "ăn cơm trước kẻng" thì có quyền mời người làm chứng để "giữ chân" cho đối tác khỏi "xù". Nhưng gặp kẻ Sở Khanh ngă mấy thì ngă, xù vẫn xù, thì sơn nữ lắm khi phải vài lần ngă mit!
Khi nàng lấy chồng, nếu người chồng nghi ngờ đ.ứa b.é đầu tiên ra đời không phải con mình, anh ta có quyền yêu cầu vợ hoặc bà đỡ phải Joă ană (đạp đến c.hết), nếu không sẽ mời già làng xét xử, không những mất mặt với cộng đồng mà còn có thể bị đuổi khỏi làng, tựa đi đày biệt xứ. Joă là đạp, ană là con, Joă ană là đạp con cho c.hết. Hủ tục này nghiệt ngã tàn khốc hơn cả "dọ tơm amí".
Buộc phải tự thi hành án Joă ană, người phụ nữ vừa gượng dậy sau sinh nở sẽ phải bồng con vào rừng, dùng cây chụp loại chuyên đào củ mài đào một hố tròn sâu, thả đứa con mình vừa rứt ruột đẻ ra dốc ngược đầu xuống đáy hố để hồn ma bé khỏi biết đường về, rồi... đạp và ...lấp. Hành đồng ấy được thực hiện trước sự chứng kiến của gã chồng, người cứ đinh ninh từ nay người vợ này mới hoàn toàn thuộc về mình, đứa con tiếp theo mới chắc chắn là con của mình.
Đến Kon Tum, đoàn du khách nào cũng được hướng dẫn ghé thăm nhà Rông, nhà thờ gỗ Kon R'Bang trăm t.uổi nổi tiếng độc đáo số một của thành phố nhỏ bé xinh đẹp phía Bắc Tây Nguyên, rồi vòng ra phía sau tòa giáo đường lộng lẫy thăm một công trình đầy ý nghĩa khác, là Tổ ấm Vinh Sơn thuộc dòng Ảnh Phép Lạ (APL), dòng tu duy nhất trên cả nước do các nữ tu người dân tộc thiểu số sáng lập. Nửa thế kỷ qua nơi đây đã cưu mang nuôi nấng mấy trăm trẻ nhỏ mồ côi tật nguyền, trong đó có nhiều em bé được giành khỏi tay tử thần "Dọ tom amí" và "Joă ană".
Cuối tháng 8/2005, nữ y tá Y Ngum ở trạm xá xã Đăk Sao huyện Tu Mơ Rông, tỉnh Kon Tum, đón một phụ nữ người Xê Đăng ở làng Kạch Lớn 2 tên là Y Nel, bụng chửa vượt mặt lại bị rắn độc cắn trong lúc lên rừng hái măng. Y Nel tắt thở đúng lúc đứa con trai đầu lòng chào đời. Cộng đồng làng Kạch nhất trí chôn con theo mẹ, anh A Huih, cha bé không dám cãi, nhưng nữ y tá Y Ngum cương quyết không cho làng c.hôn s.ống cháu bé. Được chồng là anh Nguyễn Đức Thành Nam, thành viên đội trí thức trẻ tình nguyện ủng hộ, Y Ngum đã thuyết phục được làng Kạch trao cháu bé cho cô nhận làm con nuôi, đặt tên là A Công Sơn.
Bà đỡ hoặc người vợ đáng thương biết sinh linh trong bụng mình sắp b.ị g.iết, đã trốn làng chạy đến tu viện cầu xin cứu vớt. Những thân phận Dọ tom amí, Joă ană đầu tiên về với dòng APL từ năm 1947. Tiếng lành đồn xa, càng ngày số trẻ bất hạnh được đưa về Tổ ấm càng đông, các nữ tu phải tách cơ sở làm đôi. Tổ ấm I lặng lẽ nép mình sau Nhà thờ gỗ. Tổ ấm II cách gần 2 cây số, nằm khuất sâu trong thôn Kon Harachot.
Xơ Y Blưih người dân tộc Bơhnar là mẹ cả của Tổ ấm Vinh Sơn I. Xơ Gông người dân tộc Xêđăng là mẹ cả của Tổ ấm Vinh Sơn II. Hai bà năm nay đều đã 63 t.uổi, nhân từ phúc hậu, đi tới đâu đàn cháu nhỏ cũng vẫy gọi rối rít và giơ tay đòi bế. Để có đủ cơm áo nuôi nấng hàng trăm trẻ nhỏ, có t.iền thuê thầy cô vào dạy học, các xơ phải vừa chăm trẻ vừa tổ chức lao động sản xuất.
Y tá Y Ngum bế bé A Công Sơn cùng chồng con. Ảnh: T.iền phong.
Từ đây, nhiều thân phận bất hạnh đã có cơ hội học hành đỗ đạt. Vượt qua rào cản ngôn ngữ, theo kịp các bạn ở các trường công lập là cố gắng lớn. Thi đậu vào cao đẳng, đại học lại là kỳ tích của cả mẹ và con. Các xơ thuộc lòng tên t.uổi những đứa con mang lại niềm tự hào, thành tấm gương sáng cho lớp em sau ở tổ ấm: A Huyên, A Nương, dân tộc Bơhnar, A Rươh dân tộc Jơlâng, Y Yêm dân tộc Xơđăng , Y Thu người S'rá , Alê Khăm dân tộc Rơngao, Y Loai dân tộc Jơlâng...
Xơ Y Blưih bồng một em bé xinh xắn kể, em bé này người Jơ Rai, đã may mắn khỏi c.hết oan vì bị chôn theo mẹ. Khi bé được 4 tháng t.uổi, mẹ bé ở làng Kon Thup, huyện Mang Yang, tỉnh Gia Lai, địu con lên rẫy bị trúng gió và qua đời. Dân làng họp lại, đồng tình Dọ tom amí.
Một phụ nữ nhân hậu cùng làng nghe tin vội bỏ buổi tuốt lúa chạy về nài xin làng cho chị nhận bé làm con nuôi, dù nhà chị cũng nghèo và có tới 7 đứa con. Đón được bé về, vợ chồng chị làm khai sinh, đặt tên cháu là Pi Yo Rong rồi báo cho một nữ tu ở TP Plây Ku nhờ giúp đỡ.
Bố nuôi lái xe máy, nữ tu ngồi sau ôm Pi Yo Rong chạy mấy chục cây số qua Kon Tum xin mẹ cả Y Blưih nhận cháu. Về nơi ở mới, Pi Yo Rong được chị Y Loan người Xêđăng quê huyện Ngọc Hồi, Kon Tum, đang học lớp 6 nhận làm em nuôi, vì mười mấy năm trước Y Loan cũng được cứu khỏi tục chôn con theo mẹ.
Giờ cuộc sống từng ngày đổi thay, buôn làng khắp Tây Nguyên giờ đều đã tiến bộ, tiện nghi đầy đủ hơn xưa. Hủ tục "Dọ tom amí" và "Joă ană" dần lui vào dĩ vãng.
Theo VNE
Tính toán thiệt hại sau vụ vỡ đ.ập thủy điện Ia Krêl 2 Chiều 18/6, UBND huyện Đức Cơ vừa thành lập hội đồng khảo sát, đ.ánh giá thiệt hại tài sản và hoa màu trên địa bàn xã Ia Dom sau vụ vỡ đ.ập thủy điện Ia Krêl 2. Theo thông tin sơ bộ, số tài sản, hoa màu bị thiệt hại vào khoảng 200 héc ta, trị giá khoảng 3 tỷ đồng. Đại diện...