Hợp tác mở đại học với tư nhân, dịch vụ nhìn từ thực tiễn Mỹ
Với giáo dục ở Việt Nam, điều tiên quyết đầu tiên trước khi nói đến hợp tác, cần “mở” về tư duy, mở về tự do tư tưởng, rồi chúng ta mới bàn tiếp…
LTS: Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được loạt bài viết của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, nghiên cứu sinh về giáo dục tại Hoa Kỳ chia sẻ về việc hợp tác mở đại học với tư nhân trong công nghiệp, dịch vụ, nhìn từ thực tiễn của nước Mỹ.
Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả.
Trong một thời gian dài, các trường đại học bị “lên án” vì họ sống trong tháp ngà, không cập nhật với thế giới, với xã hội và nhu cầu phát triển của cộng đồng xung quanh.
Về việc chậm chạp trong “thay đổi” hệ thống đại học, cả thế giới đang nghĩ cách thay đổi, dưới kêu gọi “Đại học lãnh đạo thay đổi thế giới”! (UN-GUNi).
Ở Mỹ, ai cũng “lên án” tháp ngà của các giáo sư đại học, nhưng nó có lý do riêng của môi trường đại học, bởi đó là một trong số rất ít nơi (nếu không nói là duy nhất), hiện nay còn nỗ lực để hướng đến đào tạo cái “đẹp” trong nhân văn – con người.
Nước nào cũng thế, cứ tưởng mình cho đại học, học thuật “tự do”, nhưng lúc nào cũng “sợ” nó “tả” quá, dạy dỗ sinh viên tự do nó làm “loạn”.Mặc dù, trong hơn 30 năm qua, đại học Mỹ bị “ép” rất lớn do Mỹ liên tục cắt ngân sách và tác động vào “tự do học thuật” của trường đại học, xuất phát từ vấn đề chính trị-kinh tế, mà lý do đầu tiên và cuối cùng: khủng hoảng kinh tế và cắt giảm ngân sách chi công.
Câu hỏi về hợp tác nghiên cứu giảng dạy giữa công ty tư nhân – các đại học nên được phát triển theo mô hình hợp tác công – tư trong đại học – công nghiệp như thế nào cho hiệu quả, có lẽ không có “một lời giải” cho tất cả các đại học.
Tuy nhiên, xin chia sẻ vài thực tế từ những gì đã và đang xảy ra ở Mỹ, với những hợp tác giữa đại học Mỹ với các đối tác, để cùng suy nghĩ cho mô hình nào ở Việt Nam là phù hợp.
Đào tạo sinh viên đại học ở Việt Nam cần mô hình như thế nào? (Ảnh minh họa: moet.gov.vn).
Những ưu điểm rất dễ dàng nhận ra trong quan hệ hợp tác giữa đại học công – công nghiệp và tập đoàn tư trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu.
Ví dụ như rất nhiều ngành học cần có nơi thực tập và thực tiễn nghiên cứu khảo sát, việc hợp tác này là lý tưởng để vừa học và vừa làm.
Hay như những nghiên cứu trong đại học có khả năng được thương mại hóa nhanh hơn, tốt hơn với chuỗi sản xuất và dịch vụ cung ứng rộng khắp của các công ty tư nhân.
Hay như sinh viên thực tập ngắn hạn tại các môi trường làm việc tư nhân cũng giúp nâng cao kỹ năng lao động thực tiễn đang đòi hỏi…
Tôi muốn chia sẻ một số điểm khác, đáng lưu ý trong quá trình hợp tác này, từ thực tiễn của đại học Mỹ trong hơn 20 năm cắt giảm ngân sách vừa qua.
Sự thương mại hóa “quá đà” của các Tập đoàn – Công ty trong hoạt động của các đại học công
Dùng tài sản công, tiền cấp nghiên cứu của ngân sách nhà nước, nhưng kết quả thuộc về tư nhân và sau đó, biến những giáo sư – nhóm nghiên cứu trong đại học thành làm “thuê” và làm giàu cho tư nhân, bằng tiền của nhà nước, qua hệ thống đại học công.
Những vấn nạn trong những nghiên cứu và ứng dụng của đại học và “bị” thương mại hóa, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đại học hiện nay, có thể đọc tham khảo mấy cuốn điển hình, The Marketplace – Commercializzation of Higher Education (Derek Bok, cựu chủ tịch Harvard); Education and Commercial Mindset (Samuel Abrams).
Bởi, bản chất việc hợp tác công tư mà trong bối cảnh các trường, các giáo sư cần tiền nghiên cứu, nó gây nhiều lũng đoạn lớn, làm “thay đổi” môi trường học thuật và của xã hội. Derek Bok là cựu chủ tịch Harvard, là trường tư và là trường elite (Ưu Tú), nhưng Derek “dám” nói lên sự thật những mặt rất “tối” trong cả hệ thống hợp tác công – tư ở Harvard, ở các trường đại học công lớn của Mỹ.
Đại học và giáo dục đang bị biến thành “cái chợ” (market), nơi tiền công đổ vào đầu tư, nhưng kết quả phần lớn được ăn chia giữa các lãnh đạo đại học và các tập đoàn, chưa kể đến những “biến thái” đạo đức học thuật.
Ví dụ như, những hợp tác nghiên cứu vi phạm đạo đức học thuật, hợp tác với những tổ chức có nghi vấn về nhân quyền (nghiên cứu trên con người, bằng con người, bất hợp pháp), hay thậm chí có những tổ chức chính trị lũng đoạn.
Video đang HOT
Ví dụ ở Mỹ, các đại học có quyền tự do hợp tác văn hóa giáo dục, nhưng bản chất của nhiều loại hình hợp tác lại thúc đẩy truyền bá tư tưởng chính trị và sự hạn chế về nhân quyền.
Xin tham khảo về những mô hình viện nghiên cứu hợp tác văn hóa đang bị lên án ở Mỹ, nhưng có hơn 100 đại học Mỹ đang nhận tiền để thực hiện các chương trình hợp tác này từ Trung Quốc. [1]
Thế sự thật là gì đằng sau những hợp tác này, là văn hóa giáo dục, là tiền hay thậm chí là chiến lược giao thoa “quyền lực mềm” giữa các thể chế chính trị hay lợi ích của ai đằng sau đó?
Chúng ta không biết…chỉ biết một sự thật rất rõ ở Mỹ, luật “ai trả tiền người đó có quyền chơi” (“who pay who play”) đang làm không chỉ đại học Mỹ, mà vô vàn điều rối rắm trong xã hội Mỹ, đến độ, sau một thời gian dài, không biết ai đang chơi ai?
Từ thực tế trên, và vì lợi ích quốc gia, nhiều vấn đề thực sự cần giữ và duy trì môi trường tự do học thuật, đã bị “chính trị” hóa “quá đà”.
Ai cũng muốn giáo dục làm điều tốt nhất, lãnh đạo tiên phong cho xã hội. Nhưng thực tế, vì đại học là nơi dạy và trực tiếp tác động đến thế hệ trẻ, những người sẽ làm chủ tương lai của đất nước, thế nên, luôn có những tác động chính trị bằng nhiều cách vào hệ thống đại học, dẫn đến thực ra, có nhiều “hạn chế” trong sự tự do tư duy, tự do thể hiện.
Qua đó, rất hạn chế để đại học và giáo sư, sinh viên thực sự “ sáng tạo”…chưa kể đến vấn nạn, ngay ở Harvard, cũng là nơi các tụ điểm của các “intelligent agencies” (cơ quan an ninh) các nước gặp gỡ. [2], [3]
Đại học cần được trở lại giá trị gốc của nó
Đại học cần được trở lại giá trị gốc của nó: tự do học thuật – tự do tư duy và thực thi trách nhiệm dẫn dắt xã hội bằng những con người tự do, có tri thức và có trách nhiệm, với sứ mệnh tiên phong lãnh đạo thay đổi xã hội, nhưng sẽ chỉ làm được, khi có những lãnh đạo dám làm và từ hệ thống của chính đại học nơi họ đang làm việc.
Hợp tác công – tư, trên toàn cầu, không chỉ trong giáo dục, phải là một mô hình thực sự được xây dựng trên cơ sở quyền lợi cân bằng và vì lợi ích của người dân, số đông, theo đúng Public Good (Lợi ích Xã Hội), chứ không phải là Public Paid Private Benefits (Xã hội trả tiền, Tư nhân hưởng lợi), như mấy thập kỷ qua.
Do vấn đề hạn chế ngân sách, các lãnh đạo đại học trở nên “bế tắc”, y như những lãnh đạo trong hệ thống chính trị, không nghĩ gì nữa, mà chỉ làm sao cho vừa vừa và mình kiếm được profile (lý lịch) để đi làm việc tiếp chỗ khác [cuốn Leadership & Ambiguity - The American College President].
Thế nên, câu chuyện về hợp tác giữa đại học với tập đoàn tư nhân, nó vừa có điểm hay, nhưng hầu hết, không mang lại quá nhiều thực sự giá trị cho sinh viên, cho giáo sư và môi trường nghiên cứu, nếu không dựa trên những nguyên tác hợp tác rất vững chắc về pháp lý và đạo đức nghiên cứu.
Bởi vô vàn thứ, đặc biệt ở Trung Quốc, đại học Trung Quốc và những nước không “chặt” về nhân quyền và đạo đức nghiên cứu, họ đã làm những sản phẩm “sốc” cả thế giới…dù đó là khoa học và từ giáo sư đại học. [4], [5]
Mỹ đang ý thức rõ việc “tụt hậu” các giá trị cơ bản của giáo dục và đại học Mỹ, thế nên trong 3 năm qua, những đề xuất cải cách đại học ở tầm vĩ mô, theo những hướng sau:
Trao nhiều quyền và tiếng nói quản lý, giám sát hoạt động đại học cho sinh viên và giáo viên nhiều hơn. [6]
Tạo dựng cơ chế tiến tới miễn phí tiền học đại học, đảm bảo cơ hội dành cho tất cả những ai có năng lực học và làm việc ở cấp độ đại học. [7]
Quản lý chặt chẽ sự minh bạch trong các vấn đề liên ngành giáo dục – sức khỏe – lao động, đặc biệt là từ vai trò trách nhiệm xã hội của các tập đoàn lớn.
Tránh tình trạng, học sinh sinh viên, đã nghèo, đã cần tiền học thì phải đi vay mượn suốt đời, nhưng tiền của đất nước, của người dân thì nuôi béo các tập đoàn chuyên trốn thuế một cách hợp pháp, làm “lủng” hết ngân sách nhà nước và từ đó, hỏng luôn cả hệ thống giáo dục tương lai.
Theo nghiên cứu của Viện Brookings, “Theo những đánh giá của bức tranh tổng thể, những gì chúng ta đang làm là làm cho những người giàu giàu hơn nữa trên những trả giá của những gia đình và con người nghèo khổ và của thế hệ tương lai” (In terms of the big picture, what it’s doing is making current rich people better off at the expense of lower-income households and future generations, William Gale, Brookings Institution).
Thế nên, mô hình hợp tác giữa trường – tập đoàn tư nhân, nó cần được hiểu và xây dựng dựa trên nguyên tắc rất cơ bản, đó là vì một xã hội công bằng hơn, vì lợi ích của số đông và tuân thủ đạo đức nghiên cứu, học thuật. Thời buổi này, tiền khan hiếm, ai cũng muốn cố mà kiếm để nuôi thân, hay ít ra để tồn tại! Nhưng cái sự “tồn tại” với giá phải trả trên tương lai của những thế hệ trẻ, bằng sự suy sụp đạo đức học thuật và nền tảng giáo dục nhân văn, nó là sự đổ vỡ tất yếu của tương lai.
Với thực trạng của Việt Nam, tư nhân và đại học tư nhân năng động hơn so với đại học công…Chỉ có điều, nó cũng “máu lửa” hơn về vấn đề tiền, như tất cả ở đâu cũng phải thế.
Trong giáo dục, tôi nghĩ, dù tư hay công, dù khác nhau về nguồn tiền và mục đích sử dụng, nhưng vì liên quan đến con người và cuộc đời của học sinh là 80 năm, giáo dục nên được nhìn nhận dưới góc độ non profit (phi lợi nhuận), non-commercial (phi thương mại) thì sẽ tốt hơn cho tất cả.
Tác giả Nguyễn Thị Lan Hương. Ảnh tác giả cung cấp
Còn ai thích kiếm tiền bằng đi buôn bằng, có lẽ không nên cho tồn tại, gây hại rất rất lớn cho toàn xã hội!
Với giáo dục ở Việt Nam, điều tiên quyết đầu tiên trước khi nói đến hợp tác, cần “mở” về tư duy, mở về tự do tư tưởng, rồi chúng ta mới bàn tiếp đến “hợp tác công – tư”, theo lợi ích vì một xã hội tốt cho tất cả nó nên như thế nào.
Theo quan điểm cá nhân, trong mọi mô hình hợp tác giữa đại học với các đối tác khác của nó, bất kể là tư nhân hay đối tác nào, đó là chúng ta cần những sinh viên, giáo sư, những lãnh đạo đại học “dám làm”, dám hợp tác với những chỗ nào tư nhân có nguồn lực để cùng phát triển và dựa trên những nguyên tắc hợp tác cụ thể: đạo đức nghiên cứu và trách nhiệm xã hội minh bạch.
Tài liệu tham khảo:
[1] https://www.universityworldnews.com/post.php?story=20190301140432282
[2] https://www.insidehighered.com/news/2017/10/03/’spy-schools-how-cia-fbi-and-foreign-intelligence-secretly-exploit-america’s
[3] https://www.acenet.edu/news-room/Pages/Statement-by-ACE-President-Ted-Mitchell-on-President-Trumps-Executive-Order-on-Free-Speech.aspx
[4] https://www.nytimes.com/2019/01/21/world/asia/china-gene-editing-babies-he-jiankui.html
[5] https://www.technologyreview.com/s/612212/the-first-social-network-of-brains-lets-three-people-transmit-thoughts-to-each-others-heads/
[6] https://www.insidehighered.com/quicktakes/2019/03/18/cassidy-warren-reintroduce-college-transparency-act
[7] https://www.nytimes.com/2019/04/22/us/politics/elizabeth-warren-student-debt.html
Nguyễn Thị Lan Hương
Theo giaoduc.net
Đề xuất thi tốt nghiệp THPT 2 lần một năm
Đề tài nghiên cứu của Viện Đo lường đánh giá phát triển giáo dục đề xuất 2 phương án để công nhận tốt nghiệp THPT cho Việt Nam trong giai đoạn tới, trong đó có phương án tổ chức thi 2 lần/năm.
PGS Nguyễn Phương Nga trình bày tóm tắt đề xuất phương án đánh giá tốt nghiệp THPT khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới - ẢNH TUỆ NGUYỄN
Sáng nay, 23.4, Viện Đo lường đánh giá phát triển giáo dục tổ chức hội thảo "Kinh nghiệm quốc tế và mô hình đánh giá để công nhận tốt nghiệp THPT cho Việt Nam".
PGS Nguyễn Phương Nga, chủ nhiệm đề tài "Nghiên cứu đề xuất phương án đánh giá xét công nhận tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH đáp ứng yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông mới" thuộc Chương trình khoa học giáo dục cấp quốc gia 2016- 2020, do Bộ trưởng Bộ GD-ĐT làm chủ nhiệm, đã đưa ra những đánh giá về các lần cải tiến thi tốt nghiệp THPT từ trước tới nay và đề xuất dự thảo đổi mới sau năm 2020.
Theo đó, sau 7 lần cải tiến, các kỳ thi tốt nghiệp THPT này vẫn chưa thay đổi được những căng thẳng và lo âu cho nhiều tầng lớp trong xã hội và các cơ quan công quyền liên quan với những áp lực lớn, chi phí công cao và những chi phí lớn của các gia đình có con em dự thi.
"Kỳ thi THPT năm 2017, 2018 vẫn là một kỳ thi đòi hỏi sự huy động cùng lúc nhiều nguồn lực phục vụ cho một kỳ thi chung toàn quốc, và chưa đảm bảo loại bỏ được một vài yếu tố tiêu cực can thiệp vào kết quả thi", nhóm nghiên cứu đánh giá.
Đề xuất hai phương án công nhận tốt nghiệp THPT
Bà Nga thay mặt nhóm nghiên cứu đề xuất 2 phương án đánh giá để công nhận tốt nghiệp THPT cho Việt Nam.
Phương án 1, gồm 2 thành tố:
Thành tố 1, các trường THPT sẽ cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình THPT cho những học sinh đã học xong chương trình THPT và đạt các điều kiện quy định của Bộ GD-ĐT.
Thành tố 2, thi tốt nghiệp THTP quốc gia: học sinh đã có giấy chứng nhận hoàn thành chương trình học THPT, sẽ đăng ký tham dự kỳ thi THPT quốc gia để được cấp bằng tốt nghiệp THPT của Sở GD-ĐT. Kỳ thi THPT được tổ chức 2 lần/năm và có thể 3 lần/năm, do sở GD-ĐT chịu trách nhiệm tổ chức thi; thí sinh được lựa chọn thời điểm thi phù hợp kế hoạch các nhân.
Kỳ thi được tổ chức tại các trung tâm khảo thí (test site) đặt tại các tỉnh/thành. Thí sinh chỉ phải thi 3 môn bắt buộc gồm: toán, ngữ văn và ngoại ngữ nằm trong chương trình lớp 12.
Phương án 2 cũng bao gồm 2 thành tố:
Thành tố 1: các trường THPT tổ chức thi tại trường cho những học sinh đã học xong chương trình THPT theo các đề thi do Trung tâm khảo thí chuyên nghiệp của Bộ GD-ĐT thiết kế. Các đề thi này là các "đề thi thử nghiệm" để đánh giá năng lực của học sinh, đồng thời cũng là điều kiện để trung tâm khảo thí chuyên nghiệp tạo lập ngân hàng các câu hỏi thi chuẩn hoá. Thời điểm thi do trường bố trí phù hợp với khung thời gian của nhà trường. Học sinh đặt điểm theo quy định sẽ được cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình THPT.
Thành tố 2: thi tốt nghiệp THPT: học sinh đã có giấy chứng nhận hoàn thành chương trình học THPT, sẽ đăng ký tham dự kỳ thi THPT quốc gia để được cấp bằng tốt nghiệp THPT của sở GD-ĐT;
Kỳ thi được tổ chức 2 lần/năm và có thể 3 lần/năm do sở GD-ĐT tổ chức, thí sinh được lựa chọn thời điểm thi phù hợp kế hoạch cá nhân. "Điều này giúp giảm tải, giảm áp lực cho thí sinh và xã hội và chất lượng đảm bảo khi mà đề thi đã thực sự chuẩn hoá", bà Nga nói.
Kỳ thi được tổ chức tại các trung tâm khảo thi đặt tại các tỉnh/thành. Thí sinh chỉ phải thi 3 môn bắt buộc: toán, ngữ văn và ngoại ngữ nằm trong chương trình lớp 12.
Áp dụng từ năm 2024?
Nhóm nghiên cứu cũng đề xuất các giai đoạn ứng dụng mô hình mới thành các giai đoạn:
Giai đoạn 2024 -2025: thi trên giấy tại các trung tâm khảo thí chuyên nghiệp đặt tại các tỉnh thành. Thí điểm thi trên máy tính theo mô hình trên đối với những địa pưhowng/ khu vực vcó điều kiện và tự nguyện thí điểm.
TS Phương Nga cũng lưu ý, các đề thi trên máy tính và thi trên giấy đều cùng đo lường đánh giá năng lực chung của các học sinh với độ khó tương đương nhau. Tuy nhiên, về "cấu trúc bề mặt" sẽ có những khác biệt theo đặc thù thi trên máy tính và thi trên giấy có sự khác biệt về hình thức.
Tất cả các thí sinh đạt điểm thieo quy định của hai loại thi này đều được xét và công nhận tốt nghiệp THPT như nhau.
Đây cũng là giai đoạn đánh giá công bố công khai các kết quả phân tích việc thi theo mô hình này cho xã hội.
Giai đoạn 2026 trở đi: thi đại trà trên phạm vi cả nước theo mô hình mới trên máy tính. Với những trường hợp đối tượng đặc thù như học sinh khuyết tật,... vẫn tổ chức kỳ thi trên giấy riêng cho các đối tượng này.
TS Phương Nga cũng phân tích những lợi ích của việc tổ chức đánh giá để công nhận tốt nghiệp THPT cấp quốc gia. Bà cho rằng, nhiều nghiên cứu của các nước trong khối OECD đã khẳng định việc thi cấp quốc gia để cấp bằng (chứng chỉ) tốt nghiệp THPT trong các nước thuộc khối OECD đã đem lại những lợi ích quốc gia.
Theo bà Nga, những lợi ích đó là bằng/chứng chỉ tốt nghiệp là căn cứ để giảm tải việc thị trường lao động và các trường đại học phải tìm kiếm các thông tin về người học và sẽ giảm chi phí để kiểm tra năng lực cần thiết của học sinh;
Bằng/chứng chỉ tốt nghiệp là căn cứ để khẳng định những năng lực, kỹ năng của từng học sinh và đóng một vai trò quan trọng trong tương lai của học sinh; là căn cứ để khẳng định giá trị của bằng/chứng chỉ về bậc học của các hệ thống giáo dục khác nhau trong từng quốc gia; là căn cứ để tuyển dụng lao động; là một trong các căn cứ để tuyển sinh vào đại học và các bậc học khác; là căn cứ để khuyến khích học sinh nỗ lực học tập.
Theo Thanh niên
Cơ hội cho trường học Việt Nam vươn tới 'đẳng cấp quốc tế' Mới đây, Vinschool đã được công nhận là thành viên của Hội đồng các Trường quốc tế CIS (Council of International Schools), khởi đầu cho mục tiêu được tổ chức giáo dục uy tín này cấp chứng nhận kiểm định. Nếu làm được điều này, Vinschool sẽ là trường Việt Nam đầu tiên đạt kiểm định CIS với những tiêu chuẩn quốc tế...