Học sinh muốn tự tử vì kỳ vọng quá lớn của cha mẹ
Theo một số chuyên gia tâm lý, nhiều học sinh hiện sống vì mục tiêu “vào trường tốt, có công việc ổn định, lập gia đình và sinh con” theo mong muốn của cha mẹ nên dễ sinh mệt mỏi.
Theo báo cáo kết quả thực hiện y tế trường học giai đoạn 2011-2015 tại hội nghị đánh giá thực trạng y tế trường học, do Bộ GD&ĐT và Bộ Y tế phối hợp tổ chức mới đây tại Hà Nội, số học sinh có ý định tự tử tăng cao (17%).
Nỗi đau tăng theo những con số
Mới đây nhất, cuối năm 2015, nữ sinh Thùy Trang (THPT Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước) tự tử để lại 5 lá thư tuyệt mệnh khiến nhiều người đau xót. Trong thư, Trang viết: “Tương lai sau này của con cũng không còn nữa, con xin lỗi bố mẹ. Không, không, con không thể chịu nỗi nữa rồi… Tương lai con mù mịt, suy nghĩ con mù mịt, con đường con đi cũng mù mịt, mọi thứ xung quanh con mù mịt…. Hết rồi, tất cả kết thúc rồi”.
Một trong 5 lá thư tuyệt mệnh Thùy Trang để lại. Ảnh: Người Lao Động.
Nguyên nhân tự tử của Trang xuất phát từ sự buồn chán, thất vọng vì em chỉ đạt học sinh trung bình. Kết quả học tập đó không đáp ứng được mong đợi của người thân.
Trước đó, hàng loạt vụ việc liên quan học sinh tự tử như làm mất tiền quỹ lớp, bị bạn bè ghép ảnh nhạy cảm đăng lên mạng, thi trượt đại học, thất tình…
Là người quan tâm đến tâm lý của giới trẻ, TS Nguyễn Hoàng Khắc Hiếu – giảng viên ĐH Sư phạm TP HCM – gửi đến thông điệp, khi bạn trẻ có ý định tự tử là lúc chỉ nhìn thấy vết mực trong cuộc đời mình, mà không thấy phần còn lại là cả tờ giấy trắng.
“Ta luôn chăm chú vào thất bại, thổi phồng lên và tưởng tượng cuộc đời mình đã mất hết tất cả. Thực ra, ta chỉ mất đi một phần rất nhỏ mà thôi. Tay chân vẫn còn. Sự sống vẫn còn. Cơ hội vẫn còn. Thời gian vẫn còn. Người thân vẫn còn. Khi tất cả những thứ khác đã mất thì tương lai vẫn còn”, vị tiến sĩ nêu quan điểm.
Nhận định về con số “17% học sinh có ý định tự tử”, TS Nguyễn Tùng Lâm – Chủ tịch Hội Tâm lý Giáo dục Hà Nội, Hiệu trưởng Trường THPT Đinh Tiên Hoàng cho rằng, đây là thực trạng đáng lo ngại.
Theo TS Tùng Lâm, lỗi thuộc về người lớn khi đã đặt lên vai trẻ quá nhiều áp lực, kỳ vọng. Trong khi đó, bố mẹ, thầy cô giáo lại chưa trang bị được cho các em những kỹ năng vượt qua giây phút căng thẳng, bế tắc.
Mở rộng vấn đề hơn, TS Vũ Thu Hương – Đại học Sư phạm Hà Nội – nhận định, con số 17% chưa phản ánh đúng thực chất, bởi thực tế học sinh có ý định tự tử nhiều hơn, nhưng nhiều em không dám thổ lộ suy nghĩ của mình.
Tác động từ gia đình
Video đang HOT
TS Vũ Thu Hương đánh giá, ý định tự tử có xu hướng tăng do cuộc sống sinh hoạt, học tập, lao động và vui chơi của không ít bạn trẻ quá nghèo nàn. Mục tiêu sống hạn hẹp và đơn sắc. Nhiều em chủ yếu hướng đến mục tiêu vào trường tốt, học xong ra trường có công việc ổn định, lập gia đình và sinh con theo… ý muốn của cha mẹ.
“Mỗi khi gặp khó khăn trong việc thực hiện mục tiêu, nhiều bạn cảm thấy mình vô dụng, hèn kém. Bởi không còn mục tiêu gì khác nên họ dễ có suy nghĩ đen tối, muốn chấm dứt cuộc đời”, TS Hương phân tích.
Bên cạnh đó, theo đánh giá của nữ TS tâm lý này, cách giáo dục trong gia đình sẽ liên quan nhiều hơn đến việc giới trẻ tự tử, nhà trường chỉ có tác động hỗ trợ.
Cụ thể, trong gia đình, tâm lý đánh giá con bằng học lực rất phổ biến và nặng nề. Nhiều cha mẹ gắn kết quả học tập của con với sự thành công của chính mình trong việc giáo dục. Điều đó gây áp lực và khiến cuộc sống của trẻ trở nên nghèo nàn, dễ mệt mỏi. Thực tế cho thấy, đánh giá một con người thành công hay không sẽ không đơn thuần ở thành tích học tập, mà ở chỗ họ đã cống hiến cho xã hội thế nào. Vì thế, cha mẹ cần xem lại cách giáo dục lý tưởng, mục tiêu sống của con trẻ để tránh những hậu quả đáng tiếc có thể xảy ra.
“Ngoài ra, cách sống của cha mẹ cũng ảnh hưởng khá nhiều đến giới trẻ” – TS Vũ Thu Hương nói – bởi một số học sinh có ý định tự tử vì cha mẹ không yêu thương nhau, khiến con cái có cảm giác mình bị lừa vì sự giả dối của phụ huynh. Trong gia đình, dù hạnh phúc hay không, cha mẹ cần sống trung thực với con. Điều này không đơn giản nhưng các con rất cần và rất mong cha mẹ mình thực hiện.
Tư vấn tâm lý trong trường học hạn chế
Theo TS Ngũ Duy Anh, Vụ trưởng Công tac Học sinh Sinh viên, Bộ GD&ĐT, thời gian qua, Bộ này khảo sát các trường THCS, THPT tại Hà Nội, TP HCM, Hải Dương, Khánh Hòa… Kết quả là trên 90% học sinh gặp khó khăn, vướng mắc về tâm lý và các em đều có nhu cầu được tư vấn.
Tuy nhiên, việc triển khai phòng tâm lý trong trường học còn nhiều hạn chế. Nhiều trường chưa có giáo viên tư vấn chuyên trách, chủ yếu là giáo viên kiêm nhiệm; đa số góc tư vấn ghép chung với phòng y tế hoặc phòng Đoàn – Đội; giáo viên tâm lý chủ yếu phải làm việc ngoài giờ hành chính… Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh và học sinh vẫn nghĩ phòng tư vấn dành cho người bị tâm thần.
Về mô hình tư vấn trong trường học hiện tại, TS Vũ Thu Hương nhận xét: Giáo viên nhiều khi còn quá trẻ để giải quyết những tình huống cụ thể. Vì vậy, các trường cần tổ chức những buổi tư vấn tâm lý do các chuyên gia phụ trách.
Về vấn đề này, ông Ngũ Duy Anh cho hay, Bộ GD&ĐT sẽ xem xét tư vấn tâm lý trên Facebook. Đây vừa là “ốc đảo” nhưng cũng vừa là “cánh cửa mở” để có thể khám phá, nhìn nhận con người.
Tại TP HCM, trường Marie Curie đã sử dụng tư vấn tâm lý cho học sinh qua trang Marie Curie Confession. Đây là kênh liên lạc thông tin hiệu quả đối với học sinh gặp khó khăn về tâm lý.
Theo Zing
6 điều cha mẹ nên tránh khi dạy con quý thân thể
Dạy con quý thân thể và sinh mạng nhưng lắm khi người lớn lấy quyền làm cha mẹ gây tổn thương tâm hồn, cảm xúc, thân thể, giới tính, nhân cách của con mình.
Chuyện kể rằng: Hoàng đế Napoléo (Pháp) tiếp kiến các mệnh phụ phu nhân, hỏi: "Các bà nghĩ phải dạy con khi nào?". Một bà mau mắn thưa: "Tôi nghĩ phải dạy từ thuở lên 3.
Hoàng đế trả lời: "Không phải".
Một bà khác lên tiếng: "Người ta nói dạy con khi chúng còn trong lòng mẹ".
Hoàng đế vẫn trả lời: "Không phải".
Các bà không biết trả lời sao? Một bà lên tiếng: "Xin hoàng đế cho biết là phải dạy con khi nào?".
"Phải dạy con 20 năm trước khi nó sinh ra", hoàng đế đáp.
Mọi người ngỡ ngàng. Thì ra dạy con 20 năm trước, có nghĩa là dạy cha mẹ nó trước. Cha mẹ tốt thì con cái mới tốt. Trong thời đại này, cha mẹ cần phải học nhiều không kém gì con cái.
Ảnh minh họa.
Những năm làm việc ở Phòng khám nhi đã cho tôi thấy đằng sau một đứa trẻ "có vấn đề" thường là một gia đình "có vấn đề". Hoặc cha mẹ dạy con quá nghiêm khắc, biến chúng thành những "người lớn tí hon", hoặc cho con quá nhiều tự do và quyền hạn khiến trẻ không biết mình là ai.
Dạy con quý thân thể và sinh mạng nhưng lắm khi người lớn lấy quyền làm cha mẹ gây tổn thương tâm hồn, cảm xúc, thân thể, giới tính, nhân cách của con mình. Đây là lúc các bậc phụ huynh nên thay đổi cách yêu chứ không thay đổi lòng yêu.
Cha mẹ nên tránh:
1. Áp đặt ước muốn của mình lên giới tính của con. Nhiều cặp vợ chồng khát khao có đứa con trai ngay từ lúc mang thai, khi sinh ra bé gái vẫn không từ bỏ mơ ước ấy, tiếp tục cho con mặc quần áo, để đầu tóc giống bé trai, mua đồ chơi con trai khiến đứa trẻ lớn lên với ý nghĩ: chỉ khi nào mình là trai mới đáp ứng được lòng mong mỏi của cha mẹ, mới khiến cha mẹ mãn nguyện.
Và rồi cô gái "đoạn tuyệt" với nữ công gia chánh, cắt đầu đinh, ăn mặc "hầm hố", xử sự như một trang nam nhi. Ngược lại, có cặp vợ chồng mong con gái lại nuôi dạy cậu con trai nhỏ của mình như là bé gái...
2. Tắm chung, ngủ chung giường với con, thay đồ trước mặt con: trẻ vô tình nhìn thấy thân thể và "cảnh nóng" của người lớn, từ đó nảy sinh tính hiếu kỳ và tật nhìn trộm, đôi khi thúc đẩy trẻ dậy thì sớm (không theo quy luật "nữ thập tam, nam thập lục" như lời các cụ dạy mà bé gái có thể bắt đầu vào tuổi lên 8 và bé trai la lên 9).
3. Đùa cợt, châm biếm, miệt thị hình hài, cố tật của con (nói lắp, béo, da đen, tóc quăn, mắt hí, răng hô, lùn...) làm trẻ xấu hổ, mặc cảm và chán ghét cơ thể mình. Đùa giỡn kết "thông gia", gán ghép con là "người yêu, vợ, chồng" với bạn khác phái từ nhỏ, khiến trẻ tò mò, hướng về chuyện nam - nữ, ham muốn tình dục sớm.
4. Không tôn trọng và bình đẳng với con như với một người lớn khác: Tại sao cha mẹ có thể đối xử lịch thiệp với hàng xóm, đồng nghiệp, thầy thuốc, nhân viên, người đi đường... mà không làm được như vậy với con mình?
Chẳng hạn:
- Không lắng nghe con. Coi ý kiến trái chiều của con là "cãi", "bướng", "vô lễ", "hỗn láo". Điều đáng buồn là đa số trẻ "ngoan", "vâng lời" lại bị chính cha mẹ mình làm mất đi bản năng phản kháng, tự vệ, sinh tồn và sống sót.
- Liên tục so sánh con với trẻ trong nhà hoặc với "con nhà người ta", ngụ ý ước gì con mình khác đi. Làm vậy không giúp con thay đổi hành vi mà trái lại càng cảm thấy tự ti hơn, thậm chí có thể ghét bố mẹ và có xu hướng muốn chống đối, nổi loạn.
Trẻ lớn lên trong sự đố kỵ và thích "dìm hàng" người khác để chứng minh mình tốt hơn, giỏi hơn. Hoặc chán nản buông xuôi vì có cố mãi cũng chẳng được công nhận.
- Dạy con kiểu "thương cho roi cho vọt", khi phạt không cho con được khóc, trẻ bị dồn nén cảm xúc và có dịp sẽ bùng phát. Đánh con tùy cơn giận của lòng mình mà không theo mức độ phạm lỗi của con khiến trẻ sẽ suy diễn: chỉ người thân mới "có quyền" đánh đập, bị đánh phải ngồi yên nếu không sẽ bị đánh đau hơn.
Trẻ lớn lên sẽ trở thành nạn nhân của bạo lực học đường, bạo hành gia đình hoặc có xu hướng dùng bạo lực để giải quyết mọi mâu thuẫn để đạt được những gì mình muốn, ngay cả khi người khác không hợp tác.
- Chửi mắng, đánh, túm tóc, lột quần áo trẻ trước mặt người khác, nhất là bạn bè của con, gây tổn thương lòng tự trọng, trẻ thấy mình tồi tệ, khinh bỉ bản thân, không đáng sống. Khi mắc lỗi sẽ sợ hãi, bế tắc và chọn cách giải quyết tiêu cực (nói dối, trốn học, bỏ nhà đi bụi, "vào đời" sớm, tự tử, giết người).
5. Đặt lên con quá nhiều kỳ vọng: cha mẹ có quyền mong đợi, kỳ vọng về con cái nhưng nếu quá xa vời và trẻ không đủ khả năng đáp ứng nổi, sẽ gây áp lực tâm lý nặng nề. Trẻ luôn có mặc cảm mình không đủ giỏi và không biết làm thế nào để hài lòng cha mẹ. Có em căng thẳng, stress, trầm cảm, bế tắc, tìm cách giải thoát bằng cái chết.
6. Đáp ứng vô điều kiện mọi yêu cầu của con: Chiều con thái quá, cho con tất cả những gì nó muốn (chứ không chỉ thứ nó cần). Trẻ lớn lên với thói quen mọi ước muốn của mình đều được thỏa mãn, sẽ dễ vấp váp trong ứng xử (chơi trội, hay tự ái với bạn bè; sốc vì bị từ chối tình cảm dẫn đến tuyệt vọng, sa sút tinh thần, thậm chí tự tử; khi lập gia đình thường thiếu kỹ năng nhường nhịn, chia sẻ, hi sinh).
R.Tagore nói: "Giáo dục một bé trai thì được một con người, giáo dục một bé gái thì được một gia đình cho mai sau". Điều quan trọng là cha mẹ phải làm gương cho con (không phải là "gương mẫu", chỉ cần làm gương là quý rồi), phải cố gắng trở thành người mà mai sau mình muốn con mình sẽ trở thành. Hãy tôn trọng thân thể và sự sống của con từ trong gia đình.
Một cô gái biết giá trị của thân xác mình sẽ không "cho đi" một cách dễ dàng, một chàng trai biết quý trọng đời sống tình dục của mình sẽ không buông thả hoặc ép bạn gái "chiều" theo dục vọng của mình. Tự trọng bản thân, tôn trọng người khác, quý trọng người dưới, kính trọng người trên, trân trọng ân nhân.
Theo BS Lan Hải/Tuổi Trẻ
Dạy con quý thân thể và sinh mạng Có người sẽ thắc mắc nội dung này liệu có "lạc đề" với giáo dục giới tính không? Vậy chúng ta giải thích thế nào về việc các em nhỏ bị chính người nhà xâm hại? Những trẻ đường phố bị lạm dụng tình dục cứ ngỡ được "quan tâm", "yêu thương" hoặc bị "trừng phạt"? Những đứa bé tập tành chơi "trò...