Hồ sơ Lầu Năm Góc (phần cuối): Những bí mật động trời được tiết lộ
Ngày 14/6/2011, Cơ quan lưu trữ quốc gia thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ đã cho giải mật 7.000 trang hồ sơ “Quan hệ Mỹ-Việt giai đoạn 1945-1967: Nghiên cứu do Bộ Quốc phòng thực hiện” do Bộ trưởng Quốc phòng lúc bấy giờ là Robert McNamara đặt làm vào tháng 6/1967.
Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara (Ảnh: CBS)
Ý tưởng làm Hồ sơ Lầu Năm Góc xuất phát từ một cuộc họp năm 1967 giữa Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara với Giáo sư Harvard, Richard Neustadt.
McNamara nhớ lại cuộc trò chuyện trong cuốn hồi ký xuất bản năm 1996 rằng: “Lần đầu tiên… tôi có cảm giác rằng chiến tranh đã không diễn ra như kỳ vọng, các học giả trong tương lai chắc chắn sẽ muốn nghiên cứu về lý do của điều đó. Tôi nghĩ chúng tôi nên tạo điều kiện cho một nghiên cứu như vậy để ngăn chặn sai lầm tương tự lặp lại trong tương lai”.
Cuối năm đó, McNamara đã xúc tiến kế hoạch thực hiện ý tưởng này và đặt hàng Trợ lý Ngoại trưởng về các vấn đề an ninh quốc tế, John McNaughton, bắt đầu thu thập các tài liệu cho các học giả sử dụng trong tương lai.
Hồ sơ Lầu Năm Góc tiết lộ, chính quyền Tổng thống Harry S. Truman đã viện trợ quân sự cho Pháp trong cuộc chiến tranh thuộc địa chống lại chính quyền Việt Minh. Điều này cho thấy Mỹ đã trực tiếp tham gia vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ rất sớm.
Ngoài ra, nó cũng cho biết vào năm 1954, chính quyền Tổng thống Dwight Eisenhower cũng đã ra quyết định làm suy yếu chính quyền miền Bắc Việt Nam non trẻ để ngăn chặn họ kiểm soát miền Nam.
Những trang tài liệu khác cho thấy chính quyền Tổng thống John F. Kennedy đã kế thừa các chính sách của chính quyền Johnson tăng cường các cuộc chiến tranh bí mật chống lại miền Bắc Việt Nam và bắt đầu kế hoạch công khai vào năm 1964, hành động đi ngược lại hoàn toàn với tuyên bố trước đó của ông.
Tài liệu cũng chỉ ra rằng Tổng thống Lyndon B. Johnson đã ra lệnh ném bom miền Bắc Việt Nam năm 1965, bất chấp phán quyết của cộng đồng tình báo Mỹ rằng điều này không có ích trong việc ngăn miền Bắc tiếp viện cho phong trào kháng chiến ở miền Nam.
Bên cạnh đó, tài liệu giải mật còn cho thấy hàng trăm trang tài liệu ghi lại các chính sách của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn 1940-1950, những tài liệu mật mô tả về các nhân vật tiếng tăm của Việt Minh, trong đó có lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Hồ sơ Lầu Năm Góc cũng đưa ra dự đoán rằng cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam không có khả thắng và nếu tiếp tục chiến tranh sẽ dẫn đến nhiều thương vong hơn nữa.
Video đang HOT
Hơn nữa, các tài liệu chỉ ra rằng có một sự hoài nghi sâu sắc trong công chúng về sự coi thường những thiệt hại về người, gồm binh sĩ và dân thường, của chính quyền Mỹ trong chiến tranh Việt Nam.
Những tài liệu giải mật cho thấy chính phủ Mỹ bí mật cố tình mở rộng vai trò của mình trong cuộc chiến bằng các cuộc không kích chống lại Lào, tấn công bờ biển Miền Bắc Việt Nam, trong khi Tổng thống Johnson hứa hẹn trước công chúng rằng sẽ không mở rộng chiến tranh.
Ngoài ra, tài liệu mật cũng đề cập tới một vấn đề gây tranh cãi nữa là việc Tổng thống Johnson quyết tâm gửi quân đội Mỹ tới Việt Nam tham chiến vào ngày 17/7/1965 bất chấp ý kiến của đội ngũ cố vấn, một bằng chứng cho thấy ông chỉ giả vờ để tham khảo ý kiến các cố vấn của mình.
Tài liệu còn cho thấy, chính phủ Washington cáo buộc lực lượng miền Bắc Việt Nam tấn công hạm đội USS Maddox năm 1964 và coi đó là cái cớ để đưa quân tới Việt Nam. Trên thực tế, cáo buộc đó do chính phủ Mỹ dàn dựng để kiếm phiếu bầu trong cuộc bầu cử sắp tới.
Long Nguyễn
Theo Dantri/History
Người Mỹ nhắc nhau tránh sai lầm Việt Nam
Giới lãnh đạo Mỹ đã biết trước rằng cuộc chiến sẽ thất bại nhưng vẫn tiếp tục đưa lính Mỹ tới Việt Nam để đánh nhau và chết.
Nhân dịp 40 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam (1975-2015), người Mỹ vẫn tiếp tục viết về đề tài này. Một trong những bài viết đáng chú ý mang tên "Ám ảnh ác mộng Chiến tranh Việt Nam" của tác giả Alan Miller trên tờ The Sacramento Bee.
Qua bài viết, tác giả muốn nhắc nhở người Mỹ không lặp lại những sai lầm mà họ đã mắc phải ở Việt Nam.
Sau đây là nội dung chính của bài viết:
Khi kế nhiệm Richard Nixon năm 1974, Tổng thống Gerald Ford tuyên bố "Cơn ác mộng kéo dài của nước Mỹ đã qua". Ông Ford khi đó ám chỉ tới vụ bê bối Watergate làm rúng động nước Mỹ hàng tháng trời.
Tuy nhiên, cơn ác mộng Việt Nam bắt đầu từ năm 1955, khi mà Mỹ cử những cố vấn quân sự đầu tiên tới Đông Nam Á, rồi sau đó là thảm họa nhục nhã của chính sách ngoại giao vào ngày 30/4/1975, vẫn tiếp tục đeo bám nước Mỹ.
Tác giả Alan Miller
Dịp kỉ niệm 40 năm sự kiện này là điều mà người Mỹ muốn quên đi nhất. Thế nhưng bức tường tưởng niệm bằng đá cẩm thạch đen u ám ở thủ đô của nước Mỹ với tên tuổi 58.272 người đã chết ở Việt Nam sẽ không thể bị quên lãng.
Những cái chết này nhắc cho chúng ta nhớ lại cảnh báo của George Santayana: "Những người không thể nhớ lại quá khứ chắc chắn sẽ tái phạm lỗi lầm". Lời răn của triết gia người Tây Ban Nha cho tới nay vẫn đúng khi các lực lượng của Mỹ đang tự sa lầy ở Trung Đông.
Hơn chục năm sau khi xâm lược Iraq, phần lớn người Mỹ thừa nhận rằng khu vực bạo lực kéo dài này là một bí ẩn vượt xa tầm hiểu biết của chúng ta.
Sự tiến thoái lưỡng nan tương tự chúng ta từng phải đối mặt ở Việt Nam, nơi chúng ta cố gắng tiến hành một cuộc chiến tranh quy ước chống lại đối thủ phi quy ước, một đối thủ không phải "con cờ" của Liên Xô hay Trung Quốc. Vậy mà cái gọi là "học thuyết domino" cho rằng Chủ nghĩa Cộng sản phải bị chặn lại ở Việt Nam vẫn cứ được lan truyền nhanh chóng.
Hình ảnh trực thăng Mỹ di tản khỏi Sài Gòn ngày 29/4/1975 được sử dụng trong bài viết của Miller.
Cựu Thượng nghị sĩ bang Virginia James Webb đã hoàn toàn đúng khi nói sẽ luôn luôn tồn tại một bức tường giữa những người từng phục vụ ở Việt Nam và những người chưa từng ở đó.
James Webb từng phục vụ ở Việt Nam với tư cách là trung đội trưởng một đơn vị thủy quân lục chiến. Sau đó, Webb làm trợ lý bộ trưởng Bộ Cựu chiến binh trong chính quyền Reagan, rồi Bộ trưởng Hải quân.
Webb tốt nghiệp Học viện Hải quân Mỹ và tình nguyện tham gia Thủy quân lục chiến, nơi mà có tới 73% binh sĩ tử trận ở Việt Nam là quân tình nguyện!
Cựu binh Việt Nam này từng nói: "Điều mỉa mai đối với Thế hệ Vĩ đại nhất là từng làm việc tại đây. Hãy để chúng tôi quên đi rằng thế hệ trong Thế chiến II đang được tôn vinh cũng chính là những người đã đưa chúng tôi đến với chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến bị phản đối rộng rãi..."
Alan Miller cho biết ông muốn chia sẻ suy nghĩ của Webb cho những kẻ diều hâu ủng hộ chiến tranh cũng như những ai đã bị cử đi chiến đấu và chết.
Bức tường tưởng niệm bằng cẩm thạch đen ở Washington
Theo Miller, lẽ ra có thể tránh được cơn ác mộng Việt Nam. Năm 1963, Bộ trưởng Quốc phòng khi đó là Robert McNamara đã đề nghị Tổng thống John F. Kennedy rút các cố vấn quân sự. Mỹ đã làm thế cho tới khi xảy ra cuộc đảo chính ở Sài Gòn dẫn tới cái chết của Ngô Đình Diệm.
Ngay sau khi Kennedy bị ám sát, Tổng thống Lyndon B. Johnson đã điều nửa triệu quân Mỹ tới Việt Nam.
Trước cuối năm 1965, McNamara đã nhận ra đây là cuộc chiến tranh không thể thắng nhưng vẫn một mực bảo vệ quan điểm cho tới khi từ chức năm 1968, lúc mà số binh sĩ Mỹ tử trận tại Việt Nam lên tới 25.000 người.
Năm 1971 là năm mà nước Mỹ chia rẽ sâu sắc với các cuộc biểu tình, những phát hiện về sự dối trá của chính quyền. Một sĩ quan thủy quân lục chiến Mỹ đã cho công bố tài liệu mật của Lầu Năm Góc cho thấy ngay từ giữa những năm 1960, giới lãnh đạo dân sự và quân đội Mỹ đã nhận thấy cuộc chiến ở Việt Nam về cơ bản là thất bại thế nhưng họ vẫn tiếp tục cử lực lượng Mỹ đến đánh nhau và chết.
Ngày 22/4/1971, ông John Kerry (hiện là Ngoại trưởng Mỹ), một cựu binh hải quân trở thành nhà hoạt động phản chiến, ra điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ. Ông Kerry đặt câu hỏi: "Làm thế nào để có thể yêu cầu một người đàn ông trở thành người cuối cùng chết ở Việt Nam? Làm thế nào để đòi hỏi một người đàn ông chết cho sai lầm?".
Nhưng cũng phải mất gần 4 năm và thêm vô số cái chết nữa Tổng thống Gerald Ford mới chịu thừa nhận và yêu cầu người Mỹ rút khỏi Sài Gòn.
Bảo Minh
Theo_Báo Đất Việt
Chính quyền Nixon điên cuồng ngăn chặn vụ rò rỉ năm 1971 Sau khi sao chép được tài liệu mật, cựu quan chức Bộ Quốc phòng Mỹ Daniel Ellsberg đã cung cấp phần lớn cho phóng viên Neil Sheehan của tờ The New York Times. Ngoài ra, ông cũng đưa bản sao tài liệu mật cho một loạt tờ báo hàng đầu khác của Mỹ lúc bấy giờ. Ông Daniel Ellsberg trả lời báo giới...