Hiệu quả từ đề án nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo miền núi
Những năm qua, sự nghiệp giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) khu vực miền núi tỉnh ta đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước thông qua các chủ trương, chính sách hỗ trợ, đầu tư phát triển.
Giờ học ngoại khóa của học sinh Trường Tiểu học Thanh Lâm (Như Xuân).
Một trong những chính sách mang lại hiệu quả thiết thực đó là UBND tỉnh Thanh Hóa đã phê duyệt Đề án “ Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo miền núi giai đoạn 2013-2020″. Mục tiêu chung của đề án là tập trung mọi nguồn lực, điều kiện để giảm nhanh sự chênh lệch về chất lượng GD&ĐT các cấp học, bậc học ở 11 huyện miền núi so với mặt bằng chung toàn tỉnh; củng cố, phát triển mạng lưới trường, lớp, các trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, THPT, giáo dục thường xuyên… tạo sự chuyển biến nhanh về chất lượng giáo dục; nâng cao mặt bằng dân trí, chất lượng nguồn nhân lực, góp phần ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững kinh tế – xã hội ở khu vực miền núi.
Sau thời gian thực hiện, giáo dục ở khu vực miền núi tỉnh Thanh Hóa đã có những chuyển biến tích cực, như mạng lưới trường lớp được quy hoạch phù hợp, chất lượng giáo dục ở các cấp học, bậc học ngày càng được nâng cao; quy mô giáo dục, mạng lưới trường lớp ở vùng dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi được củng cố, phát triển, đáp ứng nhu cầu học tập cho con em đồng bào các dân tộc trong độ tuổi đến trường. Phần lớn các thôn, bản vùng cao, biên giới đã có lớp mầm non; các xã có trường tiểu học và THCS; các huyện đều có trường THPT… Đến nay, tổng số phòng học các cấp (từ trường mầm non đến trường THPT) là 8.459 phòng, trong đó số phòng học được kiên cố hóa là 7.155 phòng (chiếm 84,6%); mạng lưới trường lớp phát triển ổn định, thuận lợi cho con em học tập. Cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học từng bước được đầu tư theo hướng kiên cố, chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục. Đến nay, đã có 333 trường đạt chuẩn quốc gia (chiếm 51%).
Việc duy trì, củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS; tỷ lệ người biết chữ trong độ tuổi từ 15 – 60 là 98,4%. Các chính sách cho học sinh, sinh viên vùng DTTS được quan tâm và đáp ứng kịp thời, có hơn 495 nghìn lượt học sinh được miễn giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập với số tiền là hơn 186 tỷ đồng; có hơn 108 nghìn học sinh được hỗ trợ tiền ăn, tiền nhà ở và gạo với số tiền hơn 218 tỷ đồng… Công tác giáo dục định hướng nghề nghiệp được triển khai từ cấp phổ thông, mô hình trường bán trú tại cấp mầm non, tiểu học, THCS được triển khai ngày càng hiệu quả, tạo điều kiện để các em học sinh tại vùng sâu, vùng xa yên tâm học tập…
Để tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn nữa đề án nâng cao chất lượng GD&ĐT miền núi, thời gian tới, ngành giáo dục tỉnh Thanh Hóa sẽ tập trung phát triển GD&ĐT trên cơ sở đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế. Gắn phát triển GD&ĐT với phát triển kinh tế – xã hội, phù hợp với thực tiễn của mỗi huyện miền núi; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên có năng lực nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức tốt, yêu nghề; xây dựng mạng lưới trường, lớp hợp lý theo hướng kiên cố hóa, hiện đại hóa, chuẩn hóa, đáp ứng nhu cầu học tập của người dân, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trên địa bàn các huyện miền núi.
Video đang HOT
Bài Và Ảnh: Xuân Minh
Theo baothanhhoa
Những thầy cô đầu tiên "đem ánh sáng văn hóa lên miền núi"
Họ là những người chắp cánh ước mơ cho các thế hệ học trò các dân tộc thiểu số, phát triển giáo dục vùng cao.
Năm 1959, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh "đem ánh sáng văn hóa lên miền núi", hơn 860 thầy cô giáo các tỉnh đồng bằng, trung du Bắc bộ đã xung phong lên công tác tại các tỉnh miền núi phía Bắc, tạo dựng nền móng cho sự nghiệp giáo dục các tỉnh Tây Bắc, Việt Bắc hôm nay, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của khu vực còn nhiều khó khăn này của Tổ Quốc.
Thầy giáo, anh hùng lao động Nguyễn Văn Bôn năm nay đã ngoài 80 tuổi nhưng khi nói về những năm tháng công tác tại Mù Cả (huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu), nhiệt huyết năm xưa lại ùa về.
Thầy giáo, Anh hùng lao động Nguyễn Văn Bôn về thăm trường THCS xã Mường Tè (tỉnh Lai Châu) năm 2012.
Năm 1959, tốt nghiệp trường Sư phạm sơ cấp Trung ương (nay là Trường Cao đẳng sư phạm Trung ương) và đang công tác tại tỉnh Thái Bình, thầy giáo trẻ Nguyễn Văn Bôn đã viết đơn lên đường theo lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ.
Xã Mù Cả (huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu), khi đó thuộc khu tự trị Thái Mèo, nơi thầy giáo Nguyễn Văn Bôn được phân công công tác có hơn 500 nhân khẩu đều là người Hà Nhì, không ai biết chữ và nhiệm vụ của các thầy giáo, cô giáo cắm bản là phải tự tìm lấy trò, tự dựng trường để dạy học.
Thầy giáo Nguyễn Văn Bôn đã nhanh chóng học tiếng Hà Nhì, tìm hiểu phong tục tập quán của địa phương để tuyên truyền, vận động đồng bào cho con đến lớp. Khi đó, xã Mù Cả có 7 bản cách nhau cả ngày đường, thầy Bôn đã vận động các gia đình ở bản Mù Cả cho học sinh các bản khác ở nhờ, góp gạo ăn cùng gia đình như con em trong nhà. Mô hình "bán trú dân nuôi" đầu tiên đã ra đời từ cách làm sáng tạo của thầy giáo Nguyễn Văn Bôn.
"Không bút viết, tôi bảo các em tập viết trên không và đọc theo. Chưa có giấy viết, tôi bảo các em lấy lá chuối rừng, bỏ sống giữa, gấp lại gọn gàng mang đến lớp làm giấy viết. Nửa tháng sau, tôi mang tiền lương của tôi, nhờ mua giấy bút cho các em", thầy Bôn nói.
Không chỉ dạy chữ cho các em nhỏ, thầy Bôn còn phát động phong trào cả bản, cả xã cùng học chữ và dạy chữ cho nhau. Nhờ sự cố gắng của cả thầy và trò, năm 1963, Mù Cả là xã đầu tiên của rẻo cao phía Bắc được ghi nhận xóa mù chữ. Thầy giáo Nguyễn Văn Bôn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng danh hiệu Anh hùng Lao động đầu tiên của ngành giáo dục cả nước.
"Tôi là phu cõng chữ/ Về với bản mù sương/ Rẽ gianh gập ghềnh bước/ Ước mơ dựng mái trường..."
Những câu thơ trong bài "Lên non" của thầy giáo Phạm Lương Thơ ở xã Đại Hợp, huyện Kiến Thụy, Hải Phòng cũng là những gợi nhớ về 15 năm công tác tại vùng cao Bắc Hà, Lào Cai. Là hiệu trưởng Trường Cấp 1 Hoàng Thu Phố (huyện Bắc Hà), thầy Phạm Lương Thơ vừa là giáo viên cắm bản, vừa đảm nhận vai trò cố vấn công tác của xã. Để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề này, chỉ 6 tháng sau khi nhận công tác, thầy Thơ đã thông thạo tiếng Mông và được đồng bào nơi đây coi như con em của bản.
Thầy giáo Phạm Lương Thơ có 15 năm công tác tại huyện vùng cao Bắc Hà (tỉnh Lào Cai).
"Khi tôi lên, tôi cử giáo viên lên các làng bản, vừa dạy phổ thông, vừa dạy bổ túc văn hóa cho dân. Mà xuống tận nương dạy, ăn ở cùng bà con dưới bản để dạy chữ. Tuy giáo viên ít, tôi vẫn hoàn thành xóa nạn mù chữ cho toàn xã. Tháng 3/1967, tôi về làm Hiệu trưởng Trường Đào tạo cán bộ huyện. Năm 1974, tôi lại được điều về làm Hiệu phó trường Thiếu niên Dân tộc vùng cao, bây giờ là trường Thanh niên dân tộc nội trú, tôi về xây dựng đầu tiên", thầy Thơ nói.
Học sinh của thầy Thơ sau này có nhiều người thành đạt, như: Nguyên Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Tráng A Pao, Nguyên Chủ nhiệm, Bộ trưởng Ủy ban Dân tộc Giàng Seo Phử cùng nhiều cán bộ, lãnh đạo của tỉnh Lào Cai.
Trong đoàn giáo viên trẻ xung phong lên làm nhiệm vụ miền núi năm ấy có một cô gái Hà Nội mảnh mai, cô giáo Đào Tố Mai. Vượt gần 500 cây số đến với các em học sinh miền núi tỉnh Lào Cai, cô giáo Mai đã cùng dân bản và các em học sinh lợp lán dựng trường. Không chỉ dạy chữ, cô giáo Mai còn dạy nữ công gia chánh cho các em gái của bản. Trong hơn 10 năm làm nhiệm vụ tại vùng khó khăn của huyện Bát Xát, thị xã Cam Đường (Lào Cai), dù sức khỏe không được tốt nhưng cô Đào Tố Mai vẫn cố gắng đến thăm nhà, động viên tất cả các học sinh.
Cô giáo Đào Tố Mai, nguyên Phó Hiệu trưởng trường THPT chuyên Trần Phú (Hải Phòng) nói rằng: quãng thời gian công tác tại các huyện miền núi của tỉnh Lào Cai đã giúp cô trưởng thành hơn.
"Sống ở miền núi, nhưng chúng tôi yêu nghề hơn rất nhiều. Dù khó khăn nhưng mỗi lần về xuôi nghỉ hè, chúng tôi đều rủ đi mua sách để không ngừng nâng cao trình độ của mình. Bản thân tôi tuy sống ở biên giới Lào Cai 10 năm, song với tôi đó là những tháng năm đẹp, là nền tảng để sau này về xuôi, tôi vẫn phấn đấu không ngừng và luôn tự hào là mình đã đóng góp một phần để Lào Cai phát triển mạnh mẽ như ngày nay", cô Mai chia sẻ.
Những giáo viên đầu tiên cắm bản, "cõng chữ lên non" giờ không ít người đã ở tuổi "xưa nay hiếm", có cả những thầy giáo, cô giáo không còn nữa. Họ là những người chắp cánh ước mơ cho các thế hệ học trò các dân tộc thiểu số, phát triển giáo dục vùng cao, tạo sức bật cho các tỉnh miền núi trong những năm tháng khó khăn nhất./.
Theo VOV
Chuyển biến trong giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi Trong những năm qua, hoạt động giáo dục và đào tạo (GD và T) vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN) đã có những chuyển biến đáng kể. Hệ thống giáo dục chuyên biệt bao gồm trường phổ thông dân tộc nội trú (PTDTNT), trường phổ thông dân tộc bán trú (PTDTBT), trường dự bị đại học được quan...