Hiệp hội góp ý 9 vấn đề liên quan đến việc sáp nhập cơ sở giáo dục đại học
Ngày 16/9, Hiệp hội có văn bản góp ý cho Dự thảo Đề án sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các cơ sở giáo dục đại học công lập gửi Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ.
Văn bản này nêu rõ: Vừa qua, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam nhận công văn số 3839/BGDĐT-GDĐH ngày 26/8/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị góp ý cho Dự thảo Đề án sáp nhập, hợp nhất hoặc giải thể các cơ sở giáo dục đại học công lập (phiên bản 27/8/2019).
Sau khi nghiên cứu dự thảo này, Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam xin được đóng góp một số ý kiến như sau:
Thứ nhất, việc Quy hoạch lại mạng lưới các trường đại học và cao đẳng là cần thiết xuất phát từ bối cảnh:
Một là, Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển nhanh chóng đề ra những yêu cầu mới cho đào tạo và nghiên cứu khoa học, cũng đưa nhiều công nghệ mới làm thay đổi phương thức đào tạo và mô hình nhà trường. Giáo dục mở đang mở ra nhiều khả năng to lớn để phát triển.
Hai là, sự hội nhập sâu rộng tạo sự giao thoa với thế giới trong giáo dục và khoa học.
Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam cho rằng, việc sắp xếp mạng lưới các trường nên theo nguyên tắc sàng lọc điều chỉnh của thị trường có sự định hướng và điều tiết của nhà nước. (Ảnh minh họa: VOV)
Ba là, đất nước đang trong tình hình buộc phải phát triển sức mạnh, trước hết là sức mạnh trí tuệ như một lẽ sống còn.
Bốn là, ngân sách nhà nước đang quá tải nếu tiếp tục bao cấp cho hệ thống sự nghiệp to lớn trong đó có giáo dục.
Năm là, nền đại học Việt Nam có quá nhiều bất cập từ hệ thống đến các cơ sở đào tạo; có một số trường thực sự yếu kém về năng lực và chất lượng đào tạo.
Nhưng việc sắp xếp trước hết không phải là sáp nhập giải thể để giảm số lượng trường. Thực ra số lượng trường đại học và cao đẳng Việt Nam không phải quá nhiều, thậm chí còn ít so với quy mô dân số.
Sự sắp xếp lại mạng lưới giáo dục đại học cũng không nên chỉ bằng một thiết kế sẵn theo ý chí của người quản lý, không nên chỉ thuần túy là giải pháp hành chính rằng trường nào còn, trường nào giải thể, trường nào sáp nhập; rằng trường nào là trọng điểm, trường nào không.
Sáp nhập giải thể chỉ nên là giải pháp cuối cùng bất đắc dĩ, tốt nhất là không dùng đến. Chuyện sáp nhập giải thể thường đụng đến rất nhiều người và hậu quả kéo theo nhiều việc đến vài năm chưa yên.
Trong bối cảnh đó, nói gọn là việc sắp xếp mạng lưới các trường nên theo nguyên tắc sàng lọc điều chỉnh của thị trường có sự định hướng và điều tiết của nhà nước.
Video đang HOT
Thứ hai, ta nên làm các việc lớn sau đây:
Một là, thực hiện tự chủ đầy đủ. Các trường sẽ tự khẳng định mình bằng phấn đấu bảo đảm chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tự bảo đảm về tài chính, về nhân lực, tự xây dựng thương hiệu mà tồn tại và phát triển.
Hai là, khuyến khích các trường phát triển theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực, đa cấp để thích hợp với nền kinh tế thị trường và thị trường dịch vụ giáo dục.
Các trường đơn ngành là sản phẩm của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây, nay rất khó có điều kiện phát triển tốt trong điều kiện mới và trên thực tế các trường đang tự động từng bước đa ngành hóa, đa lĩnh vực hóa, đa cấp hóa. Đó là một xu thế nên chấp nhận.
Lấy đó làm cơ sở cho sự đánh giá của cơ quan quản lý và sự tín nhiệm của xã hội. Điều này tối quan trọng khi ta “mở” nhiều mặt, xoá nhiều ràng buộc trong quản lý. Ba là, thực hiện việc kiểm định chất lượng thực sự khách quan đáng tin cậy về cả đào tạo, nghiên cứu khoa học và minh bạch về tài chính.
Bốn là, chấp nhận sự sàng lọc các đơn vị đào tạo theo cơ chế thị trường thông qua uy tín của thương hiệu, có sự định hướng của nhà nước thông qua khen thưởng, đầu tư và chế tài. Chế tài của nhà nước có thể từ thấp đến cao tới mức quyết định đóng cửa trường.
Năm là, khuyến khích các trường đăng ký về sứ mạng, mục tiêu, và tầm nhìn của trường tương xứng với năng lực của trường mình và có thể thay đổi trong quá trình phát triển.
Về phía nhà nước cũng nên chấp nhận sự khác biệt tương đối rộng về năng lực giữa các trường, có nghĩa là chấp nhận một phổ tương đối rộng về năng lực từ các trường đầu đàn đến các trường yếu kém.
Điều này cũng là một thực tế của quá trình phát triển. Thậm chí nước Mỹ hiện nay cũng như vậy. Người ta nói: thượng vàng hạ cám trong nền đại học Mỹ đều có, đó là sự đa dạng tất yếu. Vả lại có chấp nhận trẻ nhỏ bây giờ thì mới có những anh hùng sau này. Có điều là phải bảo đảm minh bạch.
Sáu là, việc xuất hiện các trường đầu đàn trước hết phải do sự vận động tự thân vươn lên mà nổi trội bằng sự tự khẳng định mình, không nên thiết lập một thứ bậc cố định. Nhà nước có thể tập trung đầu tư vào một số ngành, một số lĩnh vực quan trọng ở những trường có sở trường tương ứng để tạo thành các trọng điểm.
Bảy là, với các đại học quốc gia và đại học vùng thì sau khi thực hiện cơ chế tự chủ đầy đủ, các trường thành viên hiện nay sẽ trở thành những trường thực sự độc lập.
Bộ Giáo dục Đào tạo nên thiết kế một hành lang pháp lý đủ rộng mà đủ chặt, xây dựng một kế hoạch toàn diện từ lộ trình đến sự giám sát.Ta thay đổi mô hình các đại học quốc gia và đại học vùng thành các liên hiệp, các tổ hợp, các tập đoàn đại học với mối liên kết liên thông tự nguyện trong sự ràng buộc theo nguyên tắc đồng thuận nhằm phát huy sức mạnh liên lĩnh vực mà không hạn chế tính độc lập của từng trường.
Tám là, việc sắp xếp điều chỉnh nên được chuẩn bị thật kỹ về quan điểm, tư duy, đặc biệt là các chính sách cụ thể.
Không nên coi sắp xếp lần này như là một đợt cấp tập, làm thật nhanh rồi kết thúc mà nên coi đó là sự sắp xếp thường xuyên, giai đoạn đầu có thể làm nhiều việc hơn, về sau vẫn còn có sự điều chỉnh tiếp tục theo hướng tự lựa tốt nhất.
Cuối cùng, nên suy nghĩ toàn diện và tổng thể về phương hướng đổi mới cả hệ thống giáo dục đại học, từ đó mới tính được việc sắp xếp mạng lưới trường.
Thùy Linh
Theo giaoduc.net
Tự chủ tài chính: Áp lực "tăng thu"?
Việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các trường đại học công lập ở Việt Nam được triển khai thí điểm và có những kết quả ban đầu.
Tuy nhiên, để phát huy cơ chế này một cách hiệu quả, trao quyền tự chủ và thực hiện quyền tự chủ ở các cơ sở giáo dục đại học cần có những giải pháp thiết thực hơn nữa.
Cơ chế tài chính khi vận hành tự chủ GDĐH là yêu cầu căn bản của các cơ sở giáo dục. Ảnh: Quý Trung
Học phí là yếu tố quan trọng
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục Đại học (Luật số 34/2018/QH14) chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2019. Những điều chỉnh, sửa đổi bổ sung trong Luật mới được đánh giá là khá mạnh dạn, nhằm gỡ các nút thắt đối với lộ trình tự chủ đại học của Việt Nam, tạo một môi trường học tập tốt hơn cho sinh viên. Tuy nhiên, có khá nhiều vấn đề mà dư luận quan tâm, đặc biệt là các em sinh viên, đó chính là mức học phí của các trường sau tự chủ.
Chia sẻ về vấn đề này, PGS.TS Hoàng Minh Sơn - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết: Luật khẳng định rõ việc quyết định học phí là quyền của các trường. Đây là yếu tố rất quan trọng, vừa bảo đảm nâng cao chất lượng đào tạo nhưng cũng phải mở hướng tiếp cận học đại học của người học.
"Thực tế đến nay, chính sách học phí của chúng tôi cũng cơ bản ổn định. Khi Nhà nước không cấp chi thường xuyên nữa thì học phí cũng sẽ bù vào đó một phần, vì vậy, việc nâng học phí là không tránh khỏi. Tuy nhiên, tăng học phí phải có lộ trình và phù hợp với khả năng chi trả, tiếp cận của người học ở các vùng quê khác nhau. Đối với hầu hết sinh viên, các em có khả năng lựa chọn các chương trình học khác nhau, bên cạnh đó còn có học bổng hỗ trợ", PGS.TS Hoàng Minh Sơn chia sẻ.
"Học phí là yếu tố quan trọng nhưng để bảo đảm cho các đối tượng khó khăn hơn có khả năng tiếp cận, chúng tôi dùng đến quỹ học bổng. Với mức học phí như hiện nay, chúng ta hoàn toàn có thể bảo đảm nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, nếu chỉ trông chờ vào học phí sẽ không có những đột phá. Về lâu dài chúng ta cần có những giải pháp căn bản hơn về vấn đề tài chính", PGS.TS Phạm Hồng Chương nói.
Về việc thay đổi học phí liệu có ảnh hưởng đến quá trình học tập của các em sinh viên hay không? PGS.TS Phạm Hồng Chương - Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân là một trong những trường đại học đầu tiên thực hiện cơ chế tự chủ từ một phần đến toàn phần như hiện nay. Cho đến nay, nhà trường vẫn thực hiện theo đúng tinh thần Nghị định 86/2015 của Chính phủ. Mức học phí của nhà trường công khai, minh bạch và công bố học phí cho toàn khóa. Mức tăng không quá 10%/năm và thực tế hiện nay là khoảng 5%/năm.
Cần cơ chế khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, xã hội đầu tư cho GD. Ảnh minh họa
Cần sớm ban hành quy định về định mức chi phí GD
Việc các trường đại học công lập thực hiện tự chủ tài chính bị áp lực tăng thu do ngân sách giảm cấp kinh phí. Điều này có thể dẫn đến tình trạng một số trường đại học công lập thu vượt, thu sai quy định, lạm thu các khoản thu ngoài quy định. Để kiểm soát được điều này, PGS.TS Nguyễn Thu Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD&ĐT), cho biết: Mức thu học phí, thu dịch vụ tuyển sinh, các khoản thu dịch vụ khác đã được quy định tại Nghị định 86/2015 của Chính phủ. Đối với các cơ sở thí điểm tự chủ thực hiện theo quyết định phê duyệt thí điểm tự chủ cho mỗi trường.
"Việc xác định mức thu như vậy phải căn cứ vào định mức mức thu kỹ thuật theo lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo. Ngoài ra, các trường cũng phải thực hiện chế độ về quản lý tài chính về kế toàn, kiểm toán, công khai minh bạch thông tin."
PGS.TS Nguyễn Thu Thủy
Tuy nhiên, khi Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật GDĐH và sắp tới là Nghị định hướng dẫn luật có hiệu lực thì đối với các cơ sở GDĐH công lập sẽ thực hiện theo điều 65 của Luật này. Theo đó, các cơ sở GDĐH đáp ứng những quy định của Khoản 2 điều 32 của Luật này; đồng thời tự bảo đảm được kinh phí chi thường xuyên của mình thì được tự chủ xác định mức thu học phí.
Theo PGS.TS Nguyễn Thu Thủy, các trường tự chủ được tự quyết học phí trước hết đã tuân theo đề án thí điểm tự chủ đại học được Chính phủ phê duyệt. Trong thời gian tới, khi các trường tự xác định mức học phí, để hài hòa giữa nhà trường và SV, không gây sức ép quá lớn về tài chính cho các trường, Nhà nước cần sớm ban hành quy định về định mức kinh tế kỹ thuật theo lộ trình tính đúng, tính đủ chi phí giáo dục đào tạo làm căn cứ để các trường ra được quyết định. Đồng thời các cơ quan quản lý Nhà nước và xã hội có căn cứ để giám sát việc thực hiện của các trường về vấn đề này.
Điều kiện để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
Trong quá trình tự chủ, bên cạnh những lợi ích mà tự chủ tài chính đem lại vẫn còn nhiều bất cập cần chỉnh sửa. Theo PGS.TS Hoàng Minh Sơn về cơ chế tài chính, trong Luật ghi rõ các cơ chế đầu tư của Nhà nước, chính sách về tài chính đặt hàng của Nhà nước, thông qua cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ, cơ chế cạnh tranh, các trường có năng lực tốt, sử dụng quỹ có hiệu quả thì sẽ được cấp kinh phí. Hi vọng cơ chế này sớm được triển khai.
Bên cạnh đó, cần cơ chế khuyến khích sự tham gia của doanh nghiệp, xã hội. Ví dụ hiện nay, nhiều tập đoàn, doanh nghiệp mong muốn được hợp tác đầu tư trong đào tạo, nghiên cứu bằng việc xây dựng những phòng thí nghiệm, giảng đường, khu vực nghiên cứu phát triển. Nhưng quy trình thủ tục này chưa được hướng dẫn nên kéo dài, gây nản lòng các nhà đầu tư. Mong Nhà nước sớm có cơ chế, chính sách rõ ràng, để khuyến khích, tạo động lực cho các doanh nghiệp đầu tư vào trường đại học.
Trong giai đoạn tiếp theo, chuyển đổi mạnh mẽ hơn theo hướng tự chủ đại học có khá nhiều thách thức nhưng cũng là cơ hội để các trường tận dụng phát triển. PGS.TS Nguyễn Thu Thủy cho rằng, để chuẩn bị và tận dụng tốt cơ chế này, các trường nên tập trung kiện toàn bộ máy quản lý, quản trị của trường; xây dựng chiến lược phát triển; hoàn thiện hệ thống thông tin quản trị nội bộ, đặc biệt cần kết nối với Cổng thông tin của Bộ GD&ĐT để tạo thành hệ thống cơ sở dữ liệu về GD-ĐT; thực hiện công khai, minh bạch các thông tin cũng như trách nhiệm giải trình từ phía nhà trường; phát triển hệ thống quản trị chất lượng đào tạo bên trong, khuyến khích các trường đăng ký kiểm định tất cả các chương trình đào tạo, kiểm định cơ sở đào tạo.
"Đối với các trường công lập lớn, có uy tín, đúng quy mô, quy củ thì nên có cơ chế cho phép các trường tự chịu trách nhiệm lớn hơn, minh bạch hơn, từ đó bảo đảm chúng ta có khả năng xây dựng những trường đại học tầm cỡ quốc tế", PGS. TS Phạm Hồng Chương chia sẻ.
Trịnh Huyền
Theo giaoducthoidai
3 cơ sở GDĐH Việt Nam có tên trong bảng xếp hạng THE: Không ngủ quên trong chiến thắng Sáng sớm 12/9, giáo dục Việt Nam đón nhận tin vui khi 3 cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) có tên trong bảng xếp hạng uy tín thế giới - Times Higher Education (THE). Nhấn mạnh đây là kết quả đáng tự hào, PGS Hoàng Minh Sơn - Hiệu trưởng Trường ĐH Bách khoa Hà Nội - đồng thời cho rằng, chúng...