Hàn Quốc đặt mục tiêu thu hút 150.000 chuyên gia nước ngoài vào năm 2035
Theo phóng viên TTXVN tại Seoul, ngày 3/7, Chính phủ Hàn Quốc cho biết đã đặt mục tiêu thu hút 150.000 lao động chuyên môn từ nước ngoài vào năm 2025, tăng gấp đôi so với con số 72.000 của năm 2023, để nâng cao năng suất trong bối cảnh dân số trong độ t.uổi lao động ở nước này đang suy giảm.
Công nhân làm việc trên dây chuyền lắp ráp xe ô tô của Samsung tại nhà máy ở Pusan, cách Seoul khoảng 453 km về phía nam. Ảnh tư liệu (minh họa): AFP/TTXVN
Ngoài ra, Hàn Quốc cũng đặt mục tiêu thiết lập mạng lưới các hiệp định thương mại tự do (FTA) lớn nhất thế giới vào năm 2027. Chiến lược này nhằm tạo ra một mạng lưới kinh doanh quốc tế mạnh giữa lúc cạnh tranh toàn cầu về vật liệu chiến lược ngày càng gay gắt và chuỗi cung ứng mong manh.
Các kế hoạch trên là một phần của “Lộ trình phát triển năng động của Hàn Quốc”, một bộ mục tiêu chính sách dài hạn toàn diện được Bộ Kinh tế và Tài chính Hàn Quốc (MOEF) cùng các bộ liên quan công bố ngày 3/7 nhằm giải quyết tình trạng đà tăng trưởng suy yếu của nước này. Hiện các kế hoạch này đang được triển khai vì tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hàng năm của Hàn Quốc dự kiến sẽ giảm xuống mức 1% trong những năm tới và có khả năng xuống dưới 1% sau năm 2035. Bất chấp dự báo này, MOEF đã điều chỉnh tăng triển vọng tăng trưởng năm nay từ 2,2% lên 2,6%.
Thứ trưởng Kinh tế và Tài chính Hàn Quốc Kim Byoung Hwan cho biết trong một cuộc họp báo sơ bộ: “Hàn Quốc đang phải vật lộn với sự sụt giảm mạnh về tốc độ tăng trưởng tiềm năng sau khi đạt được sự tăng trưởng kinh tế chưa từng có với ‘Phép màu sông Hàn’” hay “Kỳ tích sông Hàn”. Ông nhấn mạnh một cuộc cải cách cơ cấu toàn diện là rất quan trọng để thiết lập “một chu kỳ lành mạnh của tăng trưởng kinh tế và sự dịch chuyển xã hội”.
Thứ trưởng Kim Byoung Hwan khẳng định những cải cách như vậy sẽ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo nền kinh tế phát triển bền vững.
Video đang HOT
Chính phủ Hàn Quốc coi việc thu hút 150.000 lao động nước ngoài có tay nghề là điều cần thiết vì nhận thấy rằng quốc gia này tụt hậu xa so với các nền kinh tế lớn khác trong việc sử dụng hiệu quả lao động chuyên môn từ nước ngoài. Ví dụ, trong giai đoạn 2012-2023, số lượng lao động nước ngoài có tay nghề tại Hàn Quốc chỉ tăng từ 50.000 lên 72.000. Ngược lại, Nhật Bản đã ghi nhận sự gia tăng đáng kể từ 124.000 lên 480.000 lao động nước ngoài có tay nghề trong cùng khoảng thời gian.
Để nâng cao năng suất lao động, Chính phủ Hàn Quốc cũng tập trung vào việc phát triển các ngành dịch vụ mới và đầu tư đáng kể vào trí tuệ nhân tạo, công nghệ lượng tử và công nghệ sinh học.
Chủ động trước 'làn sóng bạc' - Bài 1: Thêm một 'lục địa già'
Tiếp theo châu Âu và Mỹ, châu Á đang trên đường trở thành một "lục địa già" đúng nghĩa về dân số, đặc biệt là khu vực Đông Á.
Diễn biến này cũng phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế của châu lục đông nhất dân thế giới, phản ánh điều kiện sống ngày càng được cải thiện cũng như sự phát triển của khoa học, y học, giáo dục. Tuy nhiên, thực tế này đặt ra nhiều thách thức về kinh tế-xã hội cho hiện tại và tương lai. Với các quốc gia đang già hóa, trước xu thế tất yếu này, điều quan trọng là đảm bảo sự phát triển của xã hội dân số già trong tương lai, để t.uổi thọ cao không phải gánh nặng mà trở thành động lực.
Chùm bài "Chủ động trước 'làn sóng bạc' " phác họa bức tranh tổng thể về xu hướng già hóa dân số ở châu Á; cách các chính quyền và người dân tìm cách thích ứng trong một xã hội khi ngày càng có nhiều người cao t.uổi.
Người cao t.uổi đi bộ trên đường phố tại Tokyo, Nhật Bản, ngày 18/9/2023. Ảnh tư liệu: THX/TTXVN
Bài 1: Thêm một "lục địa già"
Những số liệu thống kê dân số năm 2023 của một loạt nước châu Á công bố từ đầu năm đến nay đã báo động tình trạng tỷ lệ sinh tiếp tục giảm và đang ở mức thấp kỷ lục, cho thấy xu hướng già hóa diễn ra ngày càng nhanh tại châu lục đông dân nhất thế giới. Dân số già trở thành câu chuyện chung của nhiều quốc gia, từ những nền kinh tế hàng đầu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, đến những nước đang phát triển như Thái Lan. Việt Nam cũng nằm trong số những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất và được dự báo sẽ trở thành xã hội già vào năm 2036.
Theo báo cáo về thay đổi nhân khẩu học tại châu Á do Ủy ban Kinh tế xã hội châu Á - Thái Bình Dương của LHQ (UNESCAP) thực hiện, dân số khu vực này đang già hóa với tốc độ nhanh chưa từng có. Nhiều nước trong khu vực chỉ mất từ 20 đến 25 năm để tỷ lệ người từ 65 t.uổi trở lên trong tổng dân số tăng từ 7% lên 14%, trong khi đa số các nước châu Âu phải mất ít nhất hơn 50 năm mới đạt tốc độ như vậy. Dự báo, số người từ 60 t.uổi trở lên ở các nước châu Á - Thái Bình Dương sẽ tăng hơn 2 lần, từ 13,6% dân số của năm 2020 lên 25% vào năm 2050. T.uổi thọ cũng tăng, với nhóm cao t.uổi nhất (từ 80 t.uổi trở lên) được dự báo sẽ chiếm 20% tổng dân số già của khu vực. Số liệu của Ngân hàng Phát triển châu Á thì cho thấy số người từ 60 t.uổi trở lên ở châu Á - Thái Bình Dương vào năm 2050 sẽ đạt gần 1,3 tỷ người. Cùng với đó, tỷ lệ t.rẻ e.m trong dân số đến năm 2030 được dự báo đạt 21%, giảm từ mức 23% của giai đoạn 1980-2020. Tỷ lệ dân số trong độ t.uổi lao động cũng được cho là còn 61% vào năm 2030, giảm so với mức 68% của giai đoạn 1980-2020.
Nếu ở châu Âu, quá trình già hóa dân số diễn ra từ từ và khá đồng đều thì ở châu Á có khoảng cách giữa các nhóm nước. Nhật Bản và Hàn Quốc là những nước đi đầu của làn sóng già hóa dân số ở châu Á, khi quá trình này bắt đầu từ cuối thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước sau những giai đoạn kinh tế bùng nổ. Nhóm những nước như Trung Quốc, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam bắt đầu sau nhưng có tốc độ già hóa rất nhanh và đang đứng trước ngưỡng cửa trở thành xã hội già, khi tỷ lệ sinh liên tục sụt giảm. Những nước như Ấn Độ, Indonesia... hiện vẫn được đ.ánh giá là xã hội trẻ nhưng cũng được dự báo sẽ sớm bước vào giai đoạn già hóa.
Tại Nhật Bản, số người từ 75 t.uổi trở lên được dự báo sẽ lên tới 22,58 triệu vào năm 2030, chiếm khoảng 20% tổng dân số. Tháng 1/2023, Thủ tướng Fumio Kishida đã phải thừa nhận rằng Nhật Bản đang đứng trước nguy cơ "liệu có thể tiếp tục hoạt động như một xã hội hay không" khi phải đối mặt với hai mối đe dọa là tỷ lệ sinh giảm và dân số già ngày càng tăng. Hàn Quốc hiện đang có tỷ lệ sinh thấp nhất thế giới và có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trong số các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). 24,5% dân số nước này hiện trên 70 t.uổi và vẫn tiếp tục là một lực lượng lao động chính trong xã hội. Đáng chú ý, số người ở độ t.uổi 70 cũng đã vượt số người ở độ t.uổi 20 vào năm ngoái. Dự báo, Hàn Quốc sẽ trở thành quốc gia có độ t.uổi trung bình già nhất thế giới vào năm 2044.
Tại Trung Quốc, theo báo cáo của Cục Thống kê quốc gia, tính đến cuối năm 2023, số người từ 65 t.uổi trở lên chiếm 15,4% tổng dân số, tăng tới 4% chỉ trong 5 năm. Với cơ cấu này, Trung Quốc đã chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số vừa phải và là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới.
Trong khi đó, Thái Lan được cảnh báo sẽ trở thành xã hội siêu già vào năm 2029. Theo dự báo mới nhất của Bộ An ninh và Phát triển con người Thái Lan, với tốc độ như hiện nay, đến năm 2037, tỷ lệ t.rẻ e.m của Thái Lan sẽ giảm xuống 14,3%, trong khi tỷ lệ người cao t.uổi sẽ tăng lên 29,85%. Dự báo dân số Thái Lan sẽ giảm một nửa xuống chỉ còn khoảng 32 triệu người trong 60 năm tới.
Việt Nam cũng là một trong các quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất thế giới. Dự báo đến năm 2050, số người từ 60 t.uổi trở lên sẽ chiếm hơn 25% dân số Việt Nam. Sự thay đổi nhân khẩu học này xảy ra ở Việt Nam không chỉ nhờ giảm tỷ lệ t.ử v.ong và tăng t.uổi thọ, mà phần lớn là do giảm mạnh tỷ lệ sinh.
So với các xã hội già ở châu Âu, điều kiện sống của người cao t.uổi châu Á được đ.ánh giá khó khăn hơn, do chênh lệch về trình độ phát triển. Kể từ năm 2000 đến nay, các nước châu Á-Thái Bình Dương ghi nhận cả t.uổi thọ và t.uổi thọ sống khỏe mạnh đều tăng, tuy nhiên t.uổi thọ trung bình tăng nhanh hơn t.uổi thọ sống khỏe mạnh. Điều này có nghĩa là người già châu Á sống lâu hơn, nhưng phải sống chung với bệnh tật; số người già cần được chăm sóc dài hạn càng tăng lên. Xét từ góc độ thu nhập, một tỷ lệ rất ít người già ở châu Á - Thái Bình Dương sống nhờ vào lương hưu, một phần vì mức độ bao phủ của chính sách lương hưu, phần vì mức lương hưu gần như rất ít. Nguồn thu nhập của những người già chủ yếu là do con cháu chu cấp, nếu không họ phải tự đi làm để trang trải cuộc sống.
Cũng như nhiều nơi khác trên thế giới, người già ở châu Á ngày càng có xu hướng sống một mình hoặc sống với vợ chồng, thay vì sống chung với đại gia đình như trước đây. Có thể lấy trường hợp của Nhật Bản làm ví dụ. Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu An sinh xã hội và Dân số quốc gia Nhật Bản công bố trong tháng 4/2024 cho thấy người già neo đơn được dự báo sẽ chiếm tới 20% tổng số các hộ gia đình ở nước này vào năm 2050 và trong 30 năm nữa, tỷ lệ hộ gia đình người già độc thân không có con cái dự kiến sẽ tăng lên, người thân của những người già cũng giảm. Thực tế này rõ ràng đòi hỏi sự quan tâm nhiều hơn của cộng đồng xã hội.
Sự gia tăng dân số già trong khi dân số trẻ giảm không chỉ dẫn đến thay đổi cấu trúc nhân khẩu học, mà còn tác động đáng kể tới kinh tế và xã hội. Trao đổi với phóng viên TTXVN, Giáo sư Matteo Napolitano thuộc Đại học Molise (Italy) đ.ánh giá tình trạng già hóa dân số đang tạo ra một vòng luẩn quẩn. Lực lượng lao động có độ t.uổi ngày càng cao, người trẻ ít cơ hội có việc làm hoặc việc làm lương thấp nên không dám lập gia đình, hoặc nếu lập gia đình thì không dám sinh con, dẫn đến tình trạng số người về hưu chiếm tỷ trọng cao và số người bước vào độ t.uổi lao động ngày càng ít. Thu nhập của các hộ gia đình bị ảnh hưởng, trong khi sự hỗ trợ của chính phủ cho các gia đình cũng ít.
Dân số già hóa nhanh chóng cũng tạo gánh nặng cho hệ thống lương hưu, tăng nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ và cơ sở hạ tầng dành cho người cao t.uổi như chăm sóc sức khỏe, giao thông và phúc lợi xã hội, từ đó đặt ra thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững. Chính phủ Nhật Bản ước tính, với xu hướng dân số già và giảm đi như hiện nay, chi phí chăm sóc người cao t.uổi hằng năm trên đầu người sẽ tăng 75% lên hơn 1.500 USD vào năm 2050 so với mức của năm 2019.
Châu Á đang già đi nhanh chóng, theo đúng nghĩa đen, trong khi những điều kiện, cơ sở cần thiết cho một xã hội già, thậm chí siêu già, cần phải được chuẩn bị trước hàng chục năm. Làm thế nào bắt kịp và chủ động đón nhận "làn sóng bạc" đang là bài toán đặt ra nhiều thách thức với các quốc gia tại châu lục này.
Chủ động trước 'làn sóng bạc' Bài cuối: Đón đầu cơ hội Những thay đổi về cấu trúc dân số trong xã hội già hóa đang dần biến người cao t.uổi thành một bộ phận ngày càng quan trọng trong lực lượng lao động, đồng thời cũng tạo ra nhiều lĩnh vực, hoạt động kinh tế xã hội mới. Trong bối cảnh xu hướng già hóa không thể đảo ngược, các nước châu Á đang...