Hai mảng màu trong bức tranh khoa học công nghệ
Nhìn lại thực trạng hoạt động khoa học và công nghệ ( KHCN) trong thời gian qua, chúng ta thấy một bức tranh có những điểm sáng tích cực nhưng cũng nhiều mảng màu trầm lắng, thể hiện ở các chỉ số về tiềm lực, năng lực và kết quả đạt được còn khiêm tốn….
Khoa học công nghệ chính là chìa khóa phát triển nền kinh tế trong giai đoạn mới.
Nhiều điểm sáng
Theo Thứ trưởng Bộ KHCN Trần Việt Thanh, hiện nay, hệ thống pháp luật về KHCN được tạo lập và ngày càng hoàn thiện với 8 đạo luật chuyên ngành và các văn bản dưới luật, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động KHCN. Bên cạnh đó, tiềm lực KHCN có bước phát triển rõ rệt. Số người trực tiếp làm công tác nghiên cứu và phát triển (R&D) là trên 62 nghìn người (7 người/1 vạn dân). Tổng số giảng viên đại học, cao đẳng trong cả nước là hơn 84 nghìn người. Bên cạnh đó, chúng ta có hơn 100 nghìn du học sinh, 300 nghìn trí thức kiều bào ở nước ngoài.
Các tổ chức KHCN cũng tăng nhanh về số lượng, đa dạng hóa về loại hình. Tính đến nay, cả nước đã có 2.202 tổ chức KHCN đăng ký hoạt động (công lập chiếm hơn 80%) và 419 trường đại học, cao đẳng. Nguồn lực tài chính cho KHCN cũng gia tăng, từ năm 2000 đến nay tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho KHCN hàng năm đạt 2%, cơ cấu đầu tư giữa công và tư chuyển dịch theo hướng tích cực hơn.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trang thiết bị, phòng thí nghiệm phục vụ nghiên cứu ứng dụng KHCN được nâng cấp và cải thiện. Thị trường công nghệ đã bước đầu hình thành. Hệ thống sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn đo lường, chất lượng tiếp cận dần với các chuẩn mực quốc tế. Hoạt động hợp tác quốc tế về KHCN được đẩy mạnh, đã hình thành mạng lưới đại diện KHCN tại nhiều quốc gia, địa bàn trọng điểm.
Video đang HOT
Đặc biệt, KHCN bước đầu có đóng góp quan trọng, thiết thực phục vụ phát triển kinh tế xã hội, trong đó khoa học tự nhiên có bước phát triển đáng kể, tạo tiền đề hình thành một số lĩnh vực KHCN mới như vũ trụ, y sinh, nano, hạt nhân; một số lĩnh vực như toán học, vật lý lý thuyết có thứ hạng cao trong khu vực ASEAN.
KHCN đã có đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng của một số ngành, lĩnh vực; có một số thành tựu nổi bật như thiết kế chế tạo thiết bị cơ khí thủy công cho nhà máy thủy điện công suất lớn, giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước dùng để khai thác dầu khí, công nghệ khai thác dầu trong đá móng, các giống lúa mới năng suất cao, khai thác vệ tinh viễn thông, làm chủ công nghệ đóng tàu, xây dựng công trình ngầm, nhà cao tầng, cầu dây văng, đường cao tốc, ghép tạng và sản xuất vắc xin….
Và mảng tối…
Cũng theo Thứ trưởng Trần Việt Thanh, mặc dù số lượng cán bộ R&D gia tăng nhưng còn rất khiêm tốn so với các nước như Hoa Kỳ (hơn 1,4 triệu người), Trung Quốc (1,2 triệu), Nhật Bản (656 nghìn), Nga (442 nghìn), Hàn Quốc (264 nghìn). Năng lực của đội ngũ nhân lực KHCN nhìn chung còn hạn chế. Chưa có chính sách hợp lý về trọng dụng cán bộ KHCN trong nước và thu hút trí thức Việt kiều….
Hiện nay, mức đầu tư của toàn xã hội cho KHCN chỉ đạt dưới 1% GDP và ngân sách nhà nước vẫn là nguồn đầu tư chính. Đầu tư của doanh nghiệp cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ còn thấp, số lượng các doanh nghiệp KHCN chưa nhiều. Cơ chế tài chính trong KHCN còn nhiều bất hợp lý, chậm đổi mới.
Bên cạnh đó, Việt Nam chưa thực sự có nhiều công trình, sản phẩm KHCN mang tính đột phá ở tầm khu vực và thế giới. Mặc dù các công trình khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế của Việt Nam có tốc độ tăng trung bình 22%/năm nhưng hệ số ảnh hưởng (Impact Factor) và chỉ số trích dẫn (average citation) còn thấp. Số lượng công trình khoa học quốc tế của Việt Nam công bố từ năm 2008 đến nay là khoảng 6.356 công trình, kém Thái Lan 4 lần, kém Singapore 7 lần, kém Nhật Bản 57 lần, Hoa Kỳ 256 lần….
Về chỉ số cạnh tranh toàn cầu, năm 2013, Việt Nam xếp thứ 70/148 quốc gia, chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu xếp thứ 76/141 quốc gia. Trong khi Singapore ở tốp đầu thế giới và các nước Malaysia, Thái Lan đều đứng trên Việt Nam. Tỷ lệ kết quả nghiên cứu trong nước được thương mại hóa và ứng dụng trong thực tiễn sản xuất, kinh doanh còn thấp. Tình trạng đề tài, dự án nghiệm thu xuất sắc nhưng “cất vào ngăn kéo” còn chưa khắc phục được.
Để khắc phục các yếu kém, đạt mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam có một nền KHCN phát triển nằm trong nhóm các nước dẫn đầu ASEAN, đến năm 2030 một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới, hoạt động KHCN thời gian tới cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ về tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động, trong đó đẩy mạnh thực hiện cơ chế Nhà nước “đặt hàng” nhiệm vụ KHCN, cấp phát tài chính linh hoạt theo cơ chế quỹ, có chính sách trọng dụng đặc biệt đối với cán bộ đầu ngành, cán bộ trẻ tài năng, lực lượng trí thức kiều bào…. Bên cạnh đó, tập trung phát triển một số viện KHCN, trường đại học cấp quốc gia theo mô hình tiên tiến trên thế giới; phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KHCN, hình thành mạng lưới các tổ chức trung gian môi giới, đánh giá, định giá công nghệ; triển khai hợp tác KHCN tầm quốc gia với các nước tiên tiến về KHCN…/.
Theo VEN
Thành lập các trung tâm xuất sắc: "Trông người lại ngẫm đến ta"
Nhằm tạo ra các cơ sở nghiên cứu - đào tạo xuất sắc bên trong các trường đại học, thời gian gần đây nhiều nước trên thế giới đã đầu tư vào việc thành lập các trung tâm xuất sắc (Center of Excellence - COE) như Anh, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Brazil... Ở Việt Nam, tuy tiềm lực khoa học công nghệ còn gặp nhiều khó khăn, nhưng chúng ta cũng đã hình thành một số đơn vị tiềm năng trở thành các COE nếu được đầu tư xứng đáng.
Ảnh: Kỹ sư thiết kế vi mạch của ICDREC
Kinh nghiệm từ các nước
COE được hiểu là tổ chức nghiên cứu và đào tạo về khoa học công nghệ (KHCN) đạt trình độ tiên tiến trên thế giới, với nghĩa là tạo ra sản phẩm khoa học, đổi mới công nghệ và đào tạo trình độ cao theo các chuẩn mực quốc tế. Nói cách khác, trung tâm xuất sắc phải đứng ở tuyến đầu, đóng vai trò dẫn dắt trong lĩnh vực mà nó hoạt động, xét ở tầm mức quốc tế.
Tế bào của COE là các nhóm nghiên cứu, gồm các cá nhân xuất sắc. Đó là nơi nhân tài tụ về làm việc và cống hiến. Do đó, một trong những đặc điểm tiên quyết của COE là con người xuất sắc, đặc biệt là lãnh đạo xuất sắc, vừa có năng lực chuyên môn, vừa có khả năng tổ chức, tạo dựng mối quan hệ, tìm kiếm kinh phí... COE thường tập trung vào một lĩnh vực mũi nhọn, với trang thiết bị hiện đại và hệ thống hỗ trợ mạnh.
Mỹ có thể coi là quốc gia đi tiên phong trong việc thành lập các trung tâm xuất sắc trong các trường đại học. Nổi tiếng nhất có Viện Richard E.Smalley (Đại học Rice), được thành lập năm 1993, có sứ mệnh dẫn đầu thế giới về nghiên cứu công nghệ nano. Sau 10 năm nhiệm vụ đó cơ bản được hoàn thành với các đề tài nghiên cứu liên quan đến công nghệ nano trong cơ thể sống, ống nano cacbon, nano trong nghiên cứu năng lượng... Có hai nhà khoa học của viện này nhận giải Nobel về hóa học năm 1996 là R.Smalley và R.Curi về công trình liên quan đến lồng cacbon C60. Năm 2005, viện này được tạp chí Small Time bầu là viện nghiên cứu đứng đầu về công nghệ nano. Bên cạnh đó, trường Đại học Rice cũng thành lập Trung tâm công nghệ nano cho sinh học và môi trường (CBEN) để ứng dụng những nghiên cứu trong công nghệ nano vào các ứng dụng sinh học và môi trường. Trung tâm này đã góp phần quan trọng thiết lập các công ty mới về công nghệ cao.
Tại châu Á, từ năm 2000 Nhật Bản đã khởi động chương trình xây dựng các COE cho thế kỷ 21 "Twenty First Century Centre of Excellence Programme". Chương trình này đã nâng được vị thế của một số trường đại học Nhật Bản đạt đẳng cấp quốc tế, đồng thời đã tạo ra một đội ngũ các nhà khoa học tài năng, sáng tạo, là nguồn cán bộ đầu đàn cho Nhật Bản và cả quốc tế. Trung Quốc cũng đầu tư hàng tỷ USD nhằm mục tiêu xây dựng các COE để đưa các trường đại học của Trung Quốc trở thành các đại học nghiên cứu tầm cỡ quốc tế...
Đến thực tiễn Việt Nam
So với các nước phát triển, việc thành lập COE ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn về nhân lực xuất sắc ở trình độ thế giới, ngân quỹ dành cho khoa học thấp, chưa có ngành mũi nhọn ghi được dấu ấn trên thế giới... nhưng theo nhìn nhận của một số chuyên gia, Việt Nam đã có một số đơn vị tiềm năng để trở thành COE nếu được đầu tư xứng đáng như Phòng thí nghiệm nghiên cứu và ứng dụng tế bào gốc, Phòng thí nghiệm công nghệ Nano, Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch (ICDREC) thuộc Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh...
Tiêu biểu là Trung tâm Nghiên cứu và đào tạo thiết kế vi mạch (ICDREC) thuộc Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh được thành lập năm 2005 với sứ mạng làm hạt nhân trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo về thiết kế vi mạch. Đến nay, ICDREC đã trở thành trung tâm hàng đầu cả nước trong lĩnh vực công nghệ mới mẻ này. Từ chip SigmaK3 công nghệ 0,25um- chip vi xử lý đầu tiên của Việt Nam ra đời năm 2008, đến nay hàng loạt chip đã được ICDREC thiết kế và chế tạo để đưa vào các sản phẩm công nghệ cao như chip VN8-01, chip SG-8V1, chip TH7150, chip VN16-32...
Số lõi IP (lõi IP là một thành phần tạo nên chip điện tử), đã được ICDREC đăng ký tham gia trên 2 sàn giao dịch quốc tế là Design& Reuse và Chip Estimate trị giá khoảng 34 triệu USD. Các sản phẩm của ICDREC đã được chuyển giao cho nhiều đơn vị ứng dụng với doanh thu ban đầu hàng chục tỷ đồng. Trên cơ sở các sản phẩm của mình, ICDREC hợp tác với các doanh nghiệp thành lập 2 công ty spin-off(có thể hiểu là các doanh nghiệp khoa học)...
Trong Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đặt mục tiêu, đến năm 2020, hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới, đủ năng lực giải quyết những vấn đề trọng yếu quốc gia đặt ra đối với KHCN, cùng những đổi mới mạnh mẽ từ Luật KHCN (sửa đổi), chúng ta có quyền hy vọng vào sự ra đời của các COE mang đẳng cấp quốc tế trong tương lai gần./.
Theo VEN
64.000 TS, PGS, ThS nhưng bài đăng tạp chí quốc tế thấp "Nền Khoa học công nghệ (KHCN) chưa được coi trọng, kinh phí giao cho hoạt động KHCN chiếm 2% trong tổng chi ngân sách nhà nước nhưng chưa được sử dụng đúng mức, hiệu quả kinh phí đầu tư của toàn xã hội cho KHCN còn khiêm tốn". Đó là những chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ Nguyễn...