Hai lý do khiến Mỹ có thể mất vị trí trung tâm tài chính thế giới vào tay Trung Quốc
Các chuyên gia cho rằng vị thế trung tâm tài chính toàn cầu của Mỹ đang bị lung lay do lòng tham của các công ty và chính sách tự làm hại bản thân của chính phủ.
Người dân mua sắm tại một siêu thị ở Glendale, California, Mỹ ngày 12/1/2022. Ảnh: AFP/TTXVN
Theo đài RT, một thông tin ngày 12/2 của Reuters cho biết tỷ lệ đầu tư trái phiếu chính phủ Trung Quốc đã tăng trong tháng 1.
Thông tin này được đưa ra sau thông tin lạm phát tháng 1 ở Mỹ đang ở mức xấu, cho thấy các nhà đầu tư đang chuyển sang Trung Quốc để tự bảo vệ mình trước lạm phát và các đợt tăng lãi suất sau đó.
Đây chỉ là điều bất thường hay một phần của xu hướng ngày càng tăng khiến Trung Quốc có thể vượt Mỹ trở thành trung tâm tài chính toàn cầu?
Nhiều chuyên gia đã từng cảnh báo về xu hướng Mỹ có thể mất vị trí trung tâm tài chính toàn cầu vào tay Trung Quốc.
Ông Ray Dalio, sáng lập viên Bridgewater, từng nhận định với tờ Financial Times: “Trung Quốc đã có các thị trường vốn lớn thứ hai thế giới và tôi nghĩ cuối cùng họ sẽ cạnh tranh để có vị trí là trung tâm tài chính thế giới”.
Ông Dalio đã đưa ra nhận định trên khi Trung Quốc hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực này năm 2020. Ngoài ra, cần lưu ý rằng đại dịch COVID-19 là một thách thức nghiêm trọng đối với vị thế cường quốc trên thế giới của Mỹ. Các yếu tố khác, bao gồm cả những sai lầm cơ bản về chính sách của chính phủ, cũng đang cản trở vị thế thống trị tài chính của Mỹ.
Trước hết, phản ứng của chính phủ trong phòng chống COVID-19 đã tác động đến nền tài chính Mỹ. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, giá trị khoản vay nước ngoài của Mỹ đã giảm dần vì các bên nước ngoài mất niềm tin vào các nhà hoạch định kinh tế Mỹ. Nhưng năm 2020 đã chứng kiến tình trạng suy giảm thực sự.
Năm đó, khi Trung Quốc cố gắng kiềm chế đợt bùng phát COVID-19 đầu tiên, nước này lần đầu tiên dẫn đầu thế giới về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI), mặc dù FDI toàn cầu đã giảm xuống. Vào năm 2021, trong khi Mỹ đã giành lại vị trí đầu bảng với con số hơn 300 tỷ USD, thì Trung Quốc cũng tăng trưởng ổn định và lập kỷ lục mới với 173,48 tỷ USD.
Video đang HOT
Nhưng ngay cả khi Mỹ chỉ coi năm 2020 là một sự cố thì xu hướng FDI tại Trung Quốc gia tăng là không thể phủ nhận. Một báo cáo tháng 1 của Citigroup, dựa trên ba cuộc khảo sát do Phòng Thương mại Mỹ ở Trung Quốc, Phòng Thương mại EU ở Trung Quốc và Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản thực hiện, cho thấy Trung Quốc là điểm đến đầu tư ưa thích của nhiều tập đoàn. Trong số các lý do được đưa ra là khả năng phục hồi chuỗi cung ứng của Trung Quốc và việc kiểm soát hiệu quả COVID-19.
Một phần lớn cũng liên quan đến các chính sách kinh tế và tiền tệ mang tính nền tảng khác của Chính phủ Mỹ. Như đã nêu trước đây, giá trị mà nước ngoài cho Mỹ vay đã giảm dần kể từ năm 2008 do sự quản lý nền kinh tế kém. Điều quan trọng cần lưu ý là phản ứng của Ngân hàng Dự trữ Liên bang (FED) đối với lạm phát (tăng lãi suất và hạ nhiệt nền kinh tế) có thể sẽ không giúp ích được gì.
Người dân mua sắm tại một chợ ở Washington, DC, Mỹ, ngày 8/2/2022. Ảnh: AFP/TTXVN
FED cho rằng nếu tỷ giá tăng, mọi người sẽ tiêu ít tiền hơn và lạm phát sẽ giảm xuống. Cho tới nay, lạm phát đang tăng vọt do nhu cầu tiêu dùng bị dồn nén từ đại dịch mà không được đáp ứng. Do đó, FED muốn làm giảm lạm phát. Tuy nhiên, đồng thái này chưa tính tới một động lực chính gây ra lạm phát tại Mỹ: thiếu cạnh tranh.
Giá cả đang tăng lên là thực tế không tranh cãi, nhưng sẽ không hợp lý nếu cho rằng giá tăng chỉ do các nguyên nhân như chi phí sản xuất tăng, tiền lương cao hơn hoặc nguyên liệu thô đắt hơn.
Theo báo cáo, tiền thưởng cho các giám đốc tài chính đã tăng 36% vào năm 2021 và nhiều lĩnh vực chính có hàng hóa tăng giá lại đang báo cáo lợi nhuận kỷ lục.
Người ta không tin là có sự trùng hợp khi BP công bố lợi nhuận cao nhất trong 8 năm; Exxon, Chevron và Shell kinh doanh lãi nhất trong 7 năm trong khi giá khí đốt ở mức cao nhất trong 8 năm. Tất nhiên đó không phải là trùng hợp và các quan chức hàng đầu biết điều đó.
Theo các cố vấn kinh tế của Nhà Trắng, bốn trong số các công ty chế biến thịt lớn nhất đã sử dụng sức mạnh thị trường để đẩy giá thịt lên và trả ít tiền cho nông dân trong thời kỳ đại dịch để tăng lợi nhuận lên 300%. Vì vậy, họ biết rằng giá cao không liên quan nhiều đến chuyện lương tăng vọt (thực ra là giảm trong điều kiện thực tế). Thay vào đó, giá cả cao liên quan khá nhiều đến lòng tham của doanh nghiệp mà chính phủ Mỹ không có quyền điều tiết.
Điều này hoàn toàn trái ngược với Trung Quốc. Cục Quản lý Nhà nước về Quy chế Thị trường (SAMR) Trung Quốc đã phạt nặng các công ty lớn vì hành vi độc quyền vào năm 2021, bao gồm cả khoản phạt 2,8 tỷ USD đối với Alibaba. Trung Quốc cũng cập nhật Luật Chống độc quyền lần đầu tiên sau 13 năm vào năm 2021, và sẽ thành lập một Cục Chống độc quyền trong năm nay.
Ngoài việc chuỗi cung ứng của Trung Quốc đã đứng vững nhờ các biện pháp kiểm soát COVID-19, không phải ngẫu nhiên mà lạm phát chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của quốc gia này năm 2021 chỉ ở mức 0,9% nhờ thị trường cạnh tranh hơn.
Nhân viên làm tại dây chuyền sản xuất ô tô của công ty Great Wall Motors ngày 19/1 ở Trung Quốc. Ảnh: Getty Images
Tại Mỹ, các chính sách thương mại ngày càng bảo hộ vừa giúp củng cố độc quyền trong nước vừa khiến các nhà đầu tư nước ngoài sợ hãi. Mặc dù ra đời để hỗ trợ đất nước, nhưng các chính sách này sẽ chỉ làm tổn hại Mỹ về lâu dài.
Cựu Bộ trưởng Tài chính Hank Paulson đã nhận định trong một bài viết trên Tạp chí Phố Wall ngày 9/12/2020 rằng vai trò lãnh đạo tài chính của Mỹ đang ngày càng bị thách thức do chịu cạnh tranh gay gắt từ nước ngoài và do các chính sách thiển cận và phản tác dụng trong nước.
Bài báo xuất hiện một ngày trước khi Chỉ số S&P Dow Jones loại bỏ một số công ty Trung Quốc theo sắc lệnh của cựu Tổng thống Donald Trump. Đó là chính sách mà Tổng thống Joe Biden tiếp tục thực hiện và điều mà ông Paulson đặc biệt phản đối.
Mỹ đã loại bỏ các đối thủ cạnh tranh nước ngoài ra khỏi các chỉ số tài chính với cái cớ lo ngại an ninh quốc gia. Điều này đã làm suy yếu môi trường tài chính cởi mở mà Mỹ đã nỗ lực thiết lập hàng thập kỷ qua. Trái lại, Trung Quốc lại đang mở cửa thị trường tài chính vốn bị coi là chặt hơn cho các công ty Mỹ, châu Âu…, mang lại nhiều cơ hội tăng trưởng hơn, trái với những gì Mỹ đang làm.
Bất chấp chiến tranh thương mại, doanh nghiệp Mỹ ở Trung Quốc vẫn không rút về nước
Nghiên cứu mới cho thấy chiến tranh thương mại Mỹ-Trung Quốc đã không khiến doanh nghiệp Mỹ rời thị trường Trung Quốc, trong khi khách hàng phải chịu chi phí từ cuộc chiến thuế quan.
Một khu phức hợp văn phòng ở quận kinh doanh trung tâm Bắc Kinh, Trung Quốc. Ảnh: Reuters
Theo tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng, trong nghiên cứu đăng trên nền tảng SSRN tháng 9, các nhà nghiên cứu Samantha Vortherms và Jiakun Jack Zhang đã cho rằng việc Mỹ áp đặt thuế quan trị giá hàng tỷ đô la lên hàng hóa Trung Quốc từ giữa năm 2018 để khiến công ty Mỹ quay về nước đã gây tổn thương nền kinh tế Mỹ, không thành công trong ép Trung Quốc thay đổi chính sách kinh tế.
Bất chấp cuộc chiến thuế quan "ăn miếng trả miếng" và căng thẳng chính trị giữa hai quốc gia, các doanh nghiệp ở hai nước vẫn có mối liên quan sâu sắc với nhau và đầu tư nước ngoài chảy vào Trung Quốc vẫn đạt kỷ lục 144,4 tỷ USD năm 2020.
Theo bà Vortherms (Đại học California ở Irvine) và Zhang (Đại học Kansas), có thêm 46% công ty con có vốn Mỹ ở Trung Quốc đóng cửa năm 2018 so với năm trước đó, nhưng chưa đầy 1% trong số đó đóng cửa do thuế quan của Mỹ.
Các nhà nghiên cứu cho biết: "Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy công ty Mỹ và của các đồng minh không có xu hướng rời Trung Quốc... Thay vào đó, các doanh nghiệp rời đi sau khi tính toán giữa rủi ro chính trị gia tăng và nguồn lực sẵn có để giảm nhẹ các rủi ro này".
Nghiên cứu trên được đưa ra trong bối cảnh Tổng thống Mỹ Joe Biden đang rà soát sâu rộng chính sách của Mỹ với Trung Quốc, trong đó có cả chiến lược áp đặt thuế quan với Trung Quốc từ thời chính quyền trước.
Một nhà máy lắp ráp của GM và đối tác Trung Quốc tại Liễu Châu. Ảnh: Reuters
Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen cũng cho rằng thuế quan Mỹ áp đặt với hàng Trung Quốc thực ra là đánh thuế người tiêu dùng Mỹ và thỏa thuận thương mại giai đoạn một đã ký với Trung Quốc hồi tháng 1/2020 không giải quyết được vấn đề mà Mỹ muốn.
Nghiên cứu cũng cho thấy các doanh nghiệp Mỹ đã không vận động chống lại thuế quan của chính phủ Mỹ như Trung Quốc hy vọng. Trong số 500 tập đoàn đa quốc gia của Mỹ có công ty con ở Trung Quốc, 63% bị ảnh hưởng tiêu cực trong chiến tranh thương mại, nhưng chỉ 22% lên tiếng phản đối và 7% quyết định rời Trung Quốc.
Theo nghiên cứu, mức độ phân tách hai nền kinh tế trong thực tế lại không lớn như kỳ vọng của các chính trị gia. Không có mấy bằng chứng cho thấy các tập đoàn đa quốc gia Mỹ thể hiện vai trò trong cuộc đối đầu Mỹ-Trung Quốc bằng cách từ bỏ Trung Quốc vì lòng yêu nước.
Hậu quả phần lớn do các doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp mới đối với thị trường Trung Quốc gánh chịu. Ví dụ như các doanh nghiệp nhỏ ở Mỹ phải mua nguyên liệu thô từ Trung Quốc với giá cao hơn trước.
Hai nhà nghiên cứu trên cũng cho biết kết quả nghiên cứu của họ đi ngược lại với khẳng định của đại diện thương mại Mỹ Katherine Tai, rằng thuế quan sẽ tạo lợi thế để chống Trung Quốc.
Tổng thống Mỹ Donald Trump (phải) khi đó và Phó Thủ tướng Trung Quốc Lưu Hạc ký thỏa thuận thương mại giai đoạn 1 tại Nhà Trắng ngày 15/1/2020. Ảnh: Reuters
Hồi tháng 1, Thư ký báo chí Nhà Trắng Jen Psaki cho biết chính quyền Tổng thống Biden sẽ xem xét lại thỏa thuận thương mại giai đoạn một giữa Mỹ và Trung. Chính quyền của ông Biden sẽ tập trung tiếp cận mối quan hệ Mỹ-Trung "từ một vị thế mạnh mẽ".
Cựu Tổng thống Donald Trump đã ký thỏa thuận thương mại giai đoạn một với Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 1/2020. Thỏa thuận này giúp xoa dịu cuộc chiến thương mại kéo dài gần 18 tháng giữa hai nước, vốn khiến hàng trăm tỷ USD hàng hóa của Mỹ và Trung Quốc bị ảnh hưởng bởi thuế quan ăn miếng trả miếng, đồng thời làm chậm hoạt động thương mại giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Theo thỏa thuận, Bắc Kinh cam kết sẽ chi thêm 200 tỷ USD để tăng cường hoạt động mua nông sản và sản phẩm chế tạo, năng lượng cùng dịch vụ của Mỹ so với mức năm 2017 trong vòng hai năm. Tuy nhiên, một báo cáo của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson công bố trong tháng 1/2021 cho thấy hoạt động mua hàng hóa Mỹ vào năm 2020 của Trung Quốc đã giảm 42% so với cam kết mà Bắc Kinh đưa ra trong thỏa thuận giai đoạn một.
Doanh nghiệp Mỹ kêu gọi tái đàm phán thương mại với Trung Quốc Theo tờ Wall Street Journal, hơn 30 hiệp hội doanh nghiệp có tầm ảnh hưởng nhất ở Mỹ, đã kêu gọi chính phủ của Tổng thống Joe Biden tái khởi động đàm phán thương mại với Trung Quốc và cắt giảm thuế nhập khẩu vì lợi ích kinh tế của chính Mỹ. Cảng biển vận chuyển hàng hóa tại Giang Tô, Trung Quốc...