Hà Giang: Những góc Nho Quế
Những ngày đầu vụ ngô vài năm trước, Ly Mý Hà (Xéo Lủng, xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, Hà Giang) nhắn tin qua Zalo cho tôi: “Chị biết ở đâu bán giống ngô CP999 không, em tìm mãi mà không còn bán.
Có giống đấy mới trồng hiệu quả ở đây thôi chị ạ”.
Sông Nho Quế địa phận Mèo Vạc.
Nhà Hà ở gần điểm cực bắc của đất nước. Nương của gia đình Hà cũng nằm ngay sát sông Nho Quế, cấy cày ngay ven con sông như một sợi chỉ xanh vắt hờ hững qua cao nguyên đá. Trên mảnh đất chỉ có ngô là sống được, cả bản Xéo Lủng đã ở đây, như lời bố của Hà, 11 đời nay.
Hàng trăm năm sông dưới chân mình
Tôi giúp Hà liên hệ với một kỹ sư nông nghiệp, chuyên cung cấp giống ngô cho bà con vùng núi. Nhưng có vẻ như chị ấy và Hà không thể giải thích được với nhau. Giống ngô Hà cần mấy năm nay không mấy nơi còn bán, người ta bắt đầu chuyển sang nghiên cứu các giống lai năng suất cao hơn. Chị kỹ sư giới thiệu vài giống cho Hà, nhưng Hà bảo, cậu đã thử nhiều lắm rồi, đất ở Xéo Lủng, chỉ có loại CP999 cũ kỹ ấy là năng suất cao nhất, những loại khác hoặc không sống được, hoặc năng suất kém đi. Mỗi năm chỉ có một vụ ngô, người dân Xéo Lủng chưa dám liều. Sát mép sông, nhưng như bất cứ một nơi nào ở cao nguyên đá này, Xéo Lủng thiếu nước trầm trọng. Không trồng ngô, người dân sẽ đói.
Nương của Hà và đa phần người Xéo Lủng, đều chỉ cách sông Nho Quế chỉ một đoạn ngắn, sát tới bờ mép dốc đứng thẳng xuống sông. Từ nương, sẽ thấy Nho Quế dường như chạy ngay dưới chân mình, kéo theo mỗi đường cày. Nương chỉ cách mốc 428, mốc xa nhất phía bắc của Việt Nam, nằm trên đường biên giới Việt-Trung, độ vài trăm mét. Người Xéo Lủng, tính ranh giới nương bằng một đường tưởng tượng từ sống núi kéo xuống phía sông. Một bản người H’Mông mấy chục nóc nhà, đã dựng nhà, trồng cấy từ rất lâu, trên những mỏm đá cao nhất nhìn thẳng xuống dòng sông xanh kia.
Sùng Chìa Na, cũng là một người Xéo Lủng mấy đời, bảo rằng vào tháng 2/1991, khi anh còn nhỏ, một sáng cả bản bỗng bị đánh thức bởi tiếng hò hét và lửa cháy. Một đám người từ bên kia biên giới, súng ống đầy đủ kéo sang, yêu cầu tất cả phải chuyển đi. Họ nói tiếng không ai hiểu. Nhưng người ở bản không chịu, vậy là 18 nóc nhà bị đốt cháy sạch. “Nó định lu nhà mình từ trước rồi, nhưng không ai đi cả, nên nó đốt, đốt cái mái nhà bằng cỏ tranh rồi là đốt cả nhà”, Ly Mí Nhù, trưởng bản Xéo Lủng kể lại. Sùng Chìa Na khi đó còn nhỏ, nhưng anh bảo lúc đó các cụ già vẫn động viên con cháu là không chạy đi đâu: “Bố mẹ sinh ra ở đây, chúng ta có đất ở đây, có mồ mả ở đây rồi”.
Video đang HOT
Không ai dời đi sau hôm ấy. Nhà cháy cả, họ dựng lại nhà mới, dưới sự hỗ trợ của những người lính biên phòng Việt Nam. Bố của Ly Mý Hà, ông Ly Chứ Sùng, khi đó đang đi bộ đội ở Cao Bằng. Nghe tin nhà cháy, ông xin về bản: “Phải về chứ, nhà mình ở chỗ núi này, sông này. Chết cũng phải chết ở đây”. Tháng 11/1991, ông Sùng cùng gia đình dựng lại một nền nhà mới, bên cạnh cây chuối cháy nham nhở. Người trong bản theo ông. “Mình dựng nhà, biên phòng với cả xã về thăm động viên suốt: “Giữ đất nhá”, đấy!”, ông Sùng cười hồn nhiên.
Năm 2000, người Xéo Lủng dời nhà đến một chỗ bằng phẳng hơn, nơi có điện lưới, có nước, chỉ cách đó vài cây số. Nhưng nương thì vẫn ở chỗ cũ. Chuyển đi, nói như ông Sùng là để bọn trẻ tiện đi học. Còn ông Sùng vẫn thích nhà cũ. Hôm tôi gặp ông Sùng, già làng vùng cao nguyên đá vẫn đang theo những đường cày chắc nịch ngay cạnh cột mốc 428: “Chỗ này nương gần, củi gần, người dân đi lại tiện, chỉ có cán bộ tới thăm thì đi lại vất vả thôi”. Ở chỗ nào Xéo Lủng, bản mới hay bản cũ, thì cũng vẫn thấy sợi chỉ Nho Quế vắt vẻo dưới chân mình thôi.
Không tìm được ngô giống CP999, gia đình Hà phải chuyển sang loại khác, có CP888, 689, n111, tiện loại nào trồng loại ấy. Nhưng Hà nói năng suất thì không bằng CP999 đã quen. Anh Ly Mý Nhù bảo ngoài ngô bà con có trồng thêm đậu. Nước vẫn thiếu, nhưng đã có hồ treo. Đường vào thôn đã làm xong từ năm 2008. Thậm chí có cả con đường đất đã làm tới sát nương, bà con có thể chở ngô bằng xe máy, không cần phải còng lưng đi bộ xuống dốc đá nửa ngày nữa. Chỉ độ năm 2009, mỗi bước chân xuống nương là một lần bấm chân lên các mỏm đá, đi nương là mất cả một ngày, nên như ông Sùng mới bảo cái gì cũng tiện, chỉ cán bộ đi thăm là không tiện. Giờ thì ai đi thăm cũng tiện, kể cả khách du lịch muốn ra tới mỏm tọa độ cuối cùng của cực Bắc.
Những ngả đường Nho Quế
Ngược dòng Nho Quế, là tới biên giới Việt-Trung. Năm 2020, vào đợt cao điểm của dịch Covid-19, cũng là cao điểm của băng giá, Đồn Biên phòng Xín Cái phải lập một chốt chặn sát sông, từ vị trí cầu Nho Quế 3 phía Đồng Văn sang Mèo Vạc. Chốt biên phòng nằm khuất dưới núi đá, không sóng điện thoại, không 3G, không cả đường xe đi vào. Mấy hôm mưa, chốt bị cô lập. Nhưng phía sông thì không yên tâm chút nào. Đoạn đó Nho Quế cạn nước, người dân vẫn tranh thủ góc ấy để tìm cách vượt biên. Cách đó không xa theo đường sông, Đồn Biên phòng Đồng Văn cũng phải lập một trạm kiểm soát sát sông, mà chỉ trong một ngày ở trạm, chúng tôi đã chứng kiến 4 người đang tìm cách vượt biên bị giữ lại. Họ đã ở trong rừng mấy ngày, chờ đêm tối vượt sông, nhưng lạnh quá, lại trở ra tự tìm đến chốt khai báo. Mấy chốt chống dịch chỉ cách nhau vài cây, nếu đi theo đường sông. Nhưng nếu đi đường bộ, phải vượt qua cả một chặng dài toàn đá hộc đá sỏi, thậm chí là cả dắt bộ. Bặm môi vượt qua mấy tảng đá, anh lính biên phòng chở tôi khoát tay chỉ sang trái, bảo: “Tuần trước có cái xe lao xuống vực chỗ này, bọn mình phải đi cứu nạn đây”. Hôm tới chốt chống dịch, anh bộ đội biên phòng nhất định giữ chúng tôi lại, để thử món tôm sông Nho Quế.
Chục năm trở lại đây, du lịch Hà Giang khởi sắc. Người ta không thể bỏ qua con sông đặc biệt xanh biếc, len giữa những dãy núi đá trùng điệp. Vị trí hẻm vực sâu nhất Đông Nam Á Tu Sản trở thành một điểm đến không thể thiếu của du khách. Độ trước năm 2012, việc xuống tới sông vẫn là một chuyện khó khăn. Hầu hết các đường xuống sông đều chưa được thuận lợi, chỉ có đi bộ. Người ta quen nhìn con sông xuyên qua núi từ trên cao.
Nhưng rồi những con đường bê-tông ở các thôn, bản được xây dựng, người ta bắt đầu nghĩ tới việc làm du lịch. Nổi tiếng nhất, là bến thuyền từ bản Tà Làng, bởi nó đi qua con dốc 49 khúc cua với khung cảnh có thể xem như là “trác tuyệt”. Người Tà Làng vốn dĩ trước kia ở cao hơn, nhưng những công trình thủy điện làm thay đổi cuộc sống của họ, biến họ thành cư dân sát bờ sông. Người ta bắt đầu sắm thuyền, rồi làm xe ôm cho khách du lịch. Tôi gặp Tuấn ở Tà Làng năm 2017, năm đầu tiên Tà Làng thử đón khách, Tuấn bảo chở khách thế này cũng đỡ hơn phải sang Trung Quốc làm thuê. Năm 2018-2020, có những đợt cao điểm, cả bản 30 trai làng đều được huy động làm xe ôm chở khách từ đường Hạnh Phúc, vượt hơn 7 cây số ngoằn ngoèo xuống thuyền. Con đường ấy đẹp thì đẹp, nhưng không dành cho người yếu tim. Đầu năm vừa rồi, UBND huyện Mèo Vạc thông báo bến thuyền bị ngừng hoạt động, với lý do không bảo đảm an toàn. Hỏi Tuấn là giờ làm gì, cậu nhún vai bảo chưa biết, có lẽ sẽ đi làm thuê đâu đó, chờ xem bao giờ Tà Làng lại được đón khách. Bây giờ, người ta xuống sông chơi theo con đường từ Nhà máy thủy điện Nho Quế 1 và thôn Hấu Chua.
Năm rồi đến nhà Hà, anh đã có thể chở tôi xuống nương bằng xe máy, đi mốc 428 chỉ mất chừng hơn giờ đồng hồ, khác hẳn chục năm trước mất cả ngày trời. Hà đã có thể diện giày tây đặt chân tới mốc, chứ không phải bỏ giày đi đất nữa, dù hẳn nhiên, anh chẳng ngại đi đất lên nương.
Đâu đó, người ta vẫn đang cãi nhau về những con đường xuống Nho Quế, về cách để quy hoạch các bến thuyền sao cho hợp lý. Chỉ có Ly Mý Hà, Sùng Chìa Na, thì vẫn đang bận nghĩ về giống ngô mới, hay Tuấn, còn băn khoăn về chiếc thuyền mới đầu tư được một năm đã phải bỏ không.
Thế đấy! Đường xuống Nho Quế ngay cả bây giờ cũng đầy những tranh cãi.
Thèn Pả - ngôi làng Mông bình yên ở cao nguyên đá Hà Giang
Nằm ngay dưới chân Cột cờ Quốc gia Lũng Cú (Hà Giang), Thèn Pả, ngôi làng hàng trăm năm tuổi còn giữ được hầu như nguyên vẹn nét truyền thống của người Mông.
Làng Thèn Pả nằm bình yên dưới chân Cột cờ Lũng Cú, Hà Giang. (Nguồn: TITC)
Từ Cột cờ Quốc gia Lũng Cú nhìn xuống, ngôi làng Thèn Pả hiện ra thơ mộng, bình yên, lọt thỏm giữa những triền đá tai mèo sắc nhọn. Làng Thèn Pả là 1 nhóm nhỏ, với 11 hộ dân họ Vàng, đều là anh em trong một đại gia đình đã sinh sống cùng nhau từ lâu đời, thuộc thôn Thèn Pả, xã Lũng Cú. Thèn Pả theo tiếng địa phương có nghĩa là "cánh đồng lớn". Bởi vậy, Thèn Pả là cánh đồng trải rộng mênh mông, bằng phẳng hiếm có trên Cao nguyên đá.
Dưới chân núi Rồng có 2 hồ nước ngọt được người dân địa phương gọi là mắt Rồng. Nước ở hồ quanh năm không bao giờ cạn. Nếu du khách đã rất quen thuộc với làng Lô Lô Chải mang những nét đặc trưng của đồng bào dân tộc Lô Lô thì làng Thèn Pả mang dấu ấn đặc trưng của đồng bào Mông. 2 ngôi làng, 2 nền văn hóa của 2 dân tộc nằm cạnh 2 hồ mắt Rồng tạo nên dấu ấn vô cùng đặc biệt.
Điều đặc biệt nhất ở đây chính là sự bình yên hiếm có. Đã có du khách nhận xét rằng: "Ở Thèn Pả, người dân được đánh thức bởi ánh nắng mặt trời, tiếng gà gáy báo hiệu ngày mới chứ không phải tiếng còi xe đông đúc như ở nơi đô thị".
Theo lãnh đạo xã Lũng Cú cho biết, toàn bộ thôn Thèn Pả nằm trong khu vực vành đai Cột cờ Quốc gia Lũng Cú, bởi vậy, các ngôi nhà đều được tu sửa đảm bảo giữ nguyên giá trị văn hóa truyền thống. Từ năm 2021, nhiều gia đình đã sửa sang lại nhà kết hợp làm homestay phục vụ khách du lịch.
Đặc biệt, có nhiều hộ xây dựng các khu bungalow theo kiến trúc dân tộc Mông để đón khách. 11 hộ trong làng, hiện có 5 hộ đã tham gia làm du lịch cộng đồng. Trong đó, có 3 hộ trực tiếp nấu rượu, làm vải lanh, nấu mèn mén. Du khách đến đây sẽ được tận mắt trải nghiệm hoạt động nấu rượu ngô, rượu Dong giềng và làm mèn mén. Đặc biệt, làng đã thành lập Ban quản lý để thu mua và kiểm soát chất lượng các sản phẩm mà bà con làm ra, đồng thời giúp phân phối, tiêu thụ sản phẩm.
Gia đình anh Vàng Sính Lùng là một trong những hộ đi đầu trong việc dựng các căn bungalow làm du lịch cộng đồng tại thôn Thèn Pả. Hiện, gia đình anh đã có 1 nhà cộng đồng với sức chứa 10 người và 8 căn bungalow.
Khu nghỉ của gia đình anh Lùng mới đi vào hoạt động được khoảng 3 tháng. Anh Lùng cho biết: Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất "thiêng", nơi đây lại được thiên nhiên ưu ái cho khí hậu, cảnh đẹp vô cùng thích hợp để phát triển du lịch.
Nhìn từ trên cao làng Thèn Pả đẹp tựa tranh vẽ. (Nguồn: TITC)
Đặc biệt, nhận thấy việc phát triển du lịch gắn với bảo tồn văn hóa truyền thống là nhiệm vụ và trách nhiệm của thế hệ đi sau, bởi thế, sau khi tỉnh, huyện có những chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển du lịch, gia đình tôi và các họ trong làng đã mạnh dạn cải tạo lại nhà cũ.
Bởi nằm trong khu vực được bảo tồn nên các hộ cải tạo nhưng vẫn giữ đúng bản sắc văn hóa truyền thống, sử dụng vật liệu thân thiện. Được biết, sau khi đi vào hoạt động, hiện gia đình anh Lùng có thu nhập khoảng 15 triệu đồng/tháng. Chủ yếu là khách nước ngoài yêu thích trải nghiệm các hoạt động văn hóa của bà con dân tộc nơi đây.
Có thể thấy được, nhiều ngôi làng trên cao nguyên đá nhờ sự nhạy bén trong tư duy làm du lịch của người dân và được cấp ủy, chính quyền địa phương định hướng, đến nay đã có thành tựu nhất định, trở thành điểm đến không thể bỏ qua của du khách.
Với làng Thèn Pả, mặc dù mới đi vào hoạt động, tuy nhiên, theo đánh giá, làng vẫn đang đảm bảo giữ gìn, phát huy được giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc Mông. Đây là tiền đề để có thể mang lại giá trị kinh tế, đồng thời phát triển du lịch bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bà con nhân dân.
Sự bình yên hiếm có ở làng Thèn Pả Hà Giang Nằm ngay dưới chân Cột cờ Quốc gia Lũng Cú, xã Lũng Cú (Đồng Văn, Hà Giang), làng Thèn Pả đã trở thành điểm đến lý tưởng cho du khách khi đến Hà Giang. Từ trung tâm thành phố Hà Giang, vượt qua con đường dài 150km du khách sẽ đặt chân đến Cao nguyên đá Đồng Văn. Vượt qua những con đường...