GS.TS Phạm Tất Dong: Xuất khẩu giáo dục, tại sao không? (21/05/2015)
Trao đổi với ĐĐK, GS.TS Phạm Tất Dong, Phó Chủ tịch Hội Khuyến học Việt Nam thẳng thắn: “Hiện trên bàn tôi đang có 4 luận án Tiến sĩ chờ đọc. Đó là công việc nhưng nói thật, đọc xong nhiều luận văn, luận án… tôi thấy chán lắm”. Trong khi đó, ông đánh giá cao nhiều luận văn, luận án của sinh viên, nghiên cứu sinh nước ngoài học tại Việt Nam, bởi ngoài tài liệu tra cứu bằng tiếng Việt, họ còn có lợi thế ngoại ngữ nên tư liệu rất phong phú. Họ chịu đọc và cách trình bày nghiên cứu cũng tốt, vì được chuẩn bị tương đối kỹ ở những cấp học dưới điều mà nhiều sinh viên Việt còn thiếu.
GS.TS Phạm Tất Dong PV: Thưa Giáo sư, có một thực tế là sinh viên, nghiên cứu sinh nước ngoài học tại Việt Nam khá ít so với số du học sinh Việt Nam ở nước ngoài? GS.TS Phạm Tất Dong: Đúng vậy, theo tôi được biết, thời gian gần đây số lượng sinh viên nước ngoài theo học ở Việt Nam ngày càng tăng lên, tất nhiên vẫn chưa thể so sánh với số lượng đông đảo người Việt Nam ra nước ngoài học. Bản thân tôi là một người được đào tạo bậc ĐH ở nước ngoài nhưng phải khẳng định, không phải tất cả những người được đào tạo ở nước ngoài đều giỏi. Cũng như đào tạo ở trong nước, đâu cũng có người giỏi và cả người không giỏi. Vì thế, trước khi đặt câu hỏi tại sao người này đi học nước ngoài về lại không được trọng dụng, hoặc thi không đỗ vào chỗ này, chỗ kia, tôi cho rằng trước hết nên xem lại mình. Việt Nam đã gia nhập WTO nhưng việc trao đổi, luân chuyển chuyên gia, cán bộ giữa Việt Nam và các nước khác không nhiều. Cụ thể, các giáo sư của Việt Nam đi giảng ở nước ngoài rất ít? – Nguyên nhân trước hết theo tôi là ở trình độ ngoại ngữ. Một khi không đủ ngôn ngữ để giảng thì chuyên môn có giỏi đến mấy cũng chịu. Mà không chỉ riêng giảng viên mà tình trạng này cũng cần khắc phục ngay từ người học nếu muốn du học theo hình thức trao đổi với các trường trong khu vực Đông Nam Á, xa hơn là châu Âu, châu Úc… Nếu các trường ĐH, CĐ trong nước chỉ giảng dạy bằng tiếng Việt như hiện nay cũng hạn chế việc tiếp nhận nhiều giảng viên, sinh viên, các nhà nghiên cứu quốc tế và các nước trong khu vực. Ngoại ngữ – tôi cho đó là rào cản lớn nhất chúng ta phải khắc phục nếu muốn ra “biển lớn”. Đánh giá về những trường có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam, GS. TS Phạm Tất Dong cho biết: “Về mặt chất lượng, tôi cho rằng không kém Việt Nam. Bằng chứng là nếu kém thì đã không hấp dẫn được người Việt Nam theo học nhiều đến vậy, tất nhiên không loại trừ một số người “sính ngoại”. Những học sinh, sinh viên theo học những trường này khi ra trường hầu hết đều có lợi thế về ngoại ngữ. Tôi được biết, hiện nay một số trường ĐH trong nước cả công lập và dân lập đã triển khai giảng dạy một số môn bằng ngoại ngữ, có thể học xen kẽ hoặc hoàn toàn bằng tiếng nước ngoài. Đây là hướng đi phù hợp với xu hướng chung của giáo dục thế giới rất cần được khuyến khích và nhân rộng”.
Có ý kiến cho rằng, hiện nay chương trình, giáo trình giảng dạy của Việt Nam hầu hết do giáo viên, giảng viên trong nước biên soạn, chưa được tiêu chuẩn hoá và công nhận trên trường quốc tế cũng là một nguyên nhân khiến cho bằng cấp từ phổ thông đến đại học của ta chưa được quốc tế công nhận?
- Muốn hội nhập tốt thì hai bên phải bình đẳng. Một khi chương trình, giáo trình của Việt Nam không được quốc tế công nhận thì bằng cấp Việt Nam không được công nhận là đương nhiên. Ở một số trường ĐH tôi có tham gia giảng dạy, tôi nhận thấy giáo trình còn thiếu, chất lượng chưa cao. Sự đầu tư cho việc viết giáo trình trong nước còn hạn chế. Trong khi để viết được một cuốn giáo trình đạt chuẩn đòi hỏi người viết phải có trình độ nhất định và có điều kiện để viết, không thể làm vội vàng mà mong có sản phẩm tốt được. Ngoài ra, để bằng cấp của Việt Nam được một cơ sở giáo dục khác ở nước ngoài công nhận, hai bên phải tiến hành nghiên cứu, tham khảo chương trình, giáo trình của nhau để xem sự tương đồng ở khối lượng tri thức.
Sinh viên trong ngày lễ tốt nghiệp
Nghĩa là, để hội nhập giáo dục thì một trong những bước quan trọng cần phải tăng cường sự hợp tác giữa các cơ sở giáo dục trong nước và nước ngoài, thưa giáo sư?
- Đúng vậy. Cần đẩy mạnh sự hợp tác, liên hết không chỉ ở cấp ĐH, CĐ mà kể cả ở cấp phổ thông. Không chỉ riêng lĩnh vực khoa học tự nhiên mà khoa học xã hội phía Việt Nam cũng cần tăng cường hợp tác với quốc tế. Tôi tin rằng, nếu có được sự hợp tác này thì chất lượng giáo dục của ta sẽ có những tiến bộ đáng kể.
Hiện nay, chúng ta mới chỉ có một vài cơ sở giáo dục đại học ở Việt Nam mở chi nhánh giáo dục ở nước ngoài (ĐH FPT mở cơ sở giáo dục tại Yangon, Myanmar). Giấc mơ xuất khẩu giáo dục Việt Nam sang nước ngoài theo giáo sư có xa vời?
- Đó là tín hiệu đáng mừng nhưng không có nghĩa chúng ta đã có thể quá lạc quan. Có một cơ sở có thể hợp tác triển khai cơ sở giáo dục tại Myanmar nhưng không có nghĩa là có thể triển khai ở Thái Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Việt Nam đã gia nhập WTO nên quy định trao đổi chuyên gia, cán bộ đã có, vấn đề là Việt Nam có đủ trình độ để được họ chấp nhận không? Tất nhiên, tôi vẫn mơ đến một ngày sang Nga, Pháp… thấy trường của Việt Nam được mở ở đó.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!
Theo daidoanket