GS Trần Thanh Vân – người châu Á thứ ba nhận Huy chương Tate
Trước Trần Thanh Vân, chỉ mới có hai người châu Á được nhận Huy chương này là Abdus Salam (1978, gốc Pakistan) và Yu Lu (Lục Vũ, CHND Trung Hoa, 2007).
Theo tin từ Mỹ, đầu tháng 4/2012, tại Hội nghị Hội Vật lý Mỹ ở Atlanta, bang Georgia, đã diễn ra lễ trọng thể trao tặng Huy chương Tate (Tate Medal) năm 2011, cho GS Jean Trần Thanh Vân, nhà vật lý nổi tiếng người Pháp gốc Việt.
Huy chương Tate là sự vinh danh của Viện Vật lý Mỹ dành cho những người có công lao to lớn trong việc tổ chức và lãnh đạo các hoạt động vật lý trên quy mô quốc tế. Ngoài tấm huy chương mang chân dung John Torrence Tate, còn có Bằng Chứng nhận và số tiền 10 nghìn USD (tương đương hơn 200 triệu đồng Việt Nam).
Huy chương Tate được lập ra vào năm 1959, ưu tiên dành tặng những nhà vật lý không mang quốc tịch Mỹ, được trao lần đầu (năm 1961) cho Paul Rosbaud, nhà vật lý người Áo đã có những hoạt động âm thầm đầy hiệu quả chống chủ nghĩa quốc xã Hitler. Những năm tiếp đó, lần lượt được tặng Huy chương Tate là các nhà vật lý: H. W. Thompson (1966), Gilberto Bernardini (1972), Abdus Salam (1978), Pierre Aigrain (1981), Edoardo Amaldi (1989), Roald Sagdeev (1992), Willibald Jentschke (1996), Herwig Franz Schopper (2003), Erio Tosatti (2005), Yu Lu (tức Lục Vũ, 2007), Gustave-Adolf Voss (2009), và Jean Trần Thanh Vân (2011).
Huy chương Tate.
Trong nhiều thập niên của thế kỷ 20 và những năm đầu thế kỷ 21, Mỹ luôn là quốc gia có nhiều nhất các nhà vật lý đoạt Giải thưởng Nobel, ngành vật lý Mỹ luôn giữ vị trí tiên phong trên thế giới. Vì vậy, Huy chương Tate là sự đánh giá mang ý nghĩa quốc tế đối với những ai được trao tặng. Khác với Giải thưởng Nobel dành để tặng những nhà vật lý có phát minh lớn, mở đường, Huy chương Tate dành để tặng những nhà vật lý đóng vai trò xuất sắc trong các hoạt động tổ chức và lãnh đạo ngành khoa học ấy.
Xem xét kỹ bản danh sách 13 nhà vật lý đã được tặng Huy chương Tate từ năm 1961 đến nay, ta thấy trong hơn nửa thế kỷ qua, chỉ mới có ba người châu Á được nhận vinh dự quốc tế ấy: Abdus Salam, Lục Vũ, và Jean Trần Thanh Vân.
Abdus Salam sinh năm 1926 tại Jhang, Pakistan, bảo vệ luận án tiến sĩ vật lý lý thuyết tại Đại học Cambridge, Vương quốc Anh, năm 26 tuổi. Ông là người sáng lập Trung tâm Quốc tế Vật lý lý thuyết (ICTP) ở Trieste, Italynăm 1964 và làm Chủ tịch Trung tâm này cho đến khi qua đời vào năm 1996. Từ 1985, ông còn được bầu làm Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới Thứ ba (TWAS). Chính vì công lao trong các hoạt động tổ chức và lãnh đạo ngành vật lý mà ông đã được tặng Huy chương Tate.
Abdus Salam rất nổi tiếng trong giới vật lý quốc tế do ông đã được tặng Giải thưởng Nobel năm 1979 cùng với hai nhà vật lý Mỹ là Sheldon Glashow và Steven Weinberg. Phát minh của ba nhà bác học đó đã thống nhất được tương tác điện từ với tương tác yếu thành tương tác điện – yếu. Abdus Salam từng được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (cũ), Giáo sư danh dự Đại học Bắc Kinh.
GS Abdus Salam, gốc Pakistan, Giải thưởng Nobel, Huy chương Tate.
Người châu Á thứ hai được tặng Huy chương Tate là GS Yu Lu (đọc theo âm Hán – Việt là Lục Vũ), nhà vật lý mang quốc tịch CHND Trung Hoa. Ông sinh năm 1937 tại thành phố Trấn Giang, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc, tốt nghiệp Đại học Kharkov, Liên Xô (cũ), năm 1961. Nhiều năm sau, làm việc tại Bắc Kinh, ông trở thành Giáo sư, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, tác giả 200 bài báo khoa học và 3 cuốn sách chuyên khảo, Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Harvard, Mỹ, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Thế giới Thứ ba.
Ông là người góp nhiều công sức trong việc thắt chặt mối quan hệ hợp tác giữa các nhà vật lý trẻ thuộc các nước đang phát triển qua các hoạt động của Trung tâm Quốc tế Vật lý lý thuyết ở Trieste, Italy, và Trường Vật lý mùa hè BCVSPIN (viết tắt tên các nước tham gia là Bangladesh – China – Vietnam – Sri Lanka – Pakistan – India – Nepal). GS Phạm Quang Hưng, người Mỹ gốc Việt, hiện làm việc tại Đại học Virginia (Mỹ), Giáo sư thỉnh giảng Trường đại học Huế và Trường đại học Quy Nhơn, được mời làm thành viên Hội đồng Cố vấn của Trường Vật lý mùa hè BCVSPIN.
Video đang HOT
Người châu Á thứ ba được tặng Huy chương Tate chính là GS Jean Trần Thanh Vân. Ông sinh năm 1936 tại Đồng Hới, Quảng Bình, học trung học tại Huế, tốt nghiệp cử nhân vật lý năm 1957, tiến sĩ vật lý năm 1963 tại Paris với bản luận án xuất sắc chỉ rõ rằng hạt proton không phải là “viên gạch cuối cùng” của vật chất, mà là một cấu trúc gồm nhiều “viên gạch” còn nhỏ hơn nữa kết hợp lại (về sau, được cộng đồng vật lý quốc tế làm sáng tỏ đó là các hạt quark). Trong các hoạt động tổ chức và lãnh đạo ngành vật lý, ông được Viện Vật lý Mỹ đánh giá là “người có công lao to lớn suốt bốn thập niên tập hợp các nhà vật lý thuộc nhiều quốc tịch và nhiều nền văn hoá khác nhau ngồi lại bên nhau trong tình thân ái qua các cuộc Gặp gỡ Moriond, Gặp gỡ Blois, Gặp gỡ Việt Nam và cũng là người đã hoạt động không mệt mỏi nhằm góp phần xây dựng một cộng đồng khoa học hiện đại ở Việt Nam.”
GS Nguyễn Văn Hiệu (phải) và GS Trần Thanh Vân.
Cùng GS Nguyễn Văn Hiệu, GS Jean Trần Thanh Vân đã tổ chức sáu lần gặp gỡ Việt Nam về vật lý hạt và vật lý thiên văn tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh sáng lập Trường Vật lý Việt Nam tập hợp nhiều nhà nghiên cứu trẻ không chỉ của Việt Nam, mà còn của nhiều nước và vùng lãnh thổ châu Á khác như Trung Quốc,Đài Loan, Hồng Kông, Ấn Độ, Pakistan, Thái-lan, Malaysia, Singapore, Bangladesh, v.v. Cùng vợ là Nữ Giáo sư Lê Kim Ngọc, một nhà sinh học nổi tiếng thế giới, ông đã góp công xây dựng các Làng Trẻ em SOS Đà Lạt, Đồng Hới và Trung tâm Bảo trợ Trẻ em Thuỷ Xuân (Huế).
Ông được Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga tặng bằng Tiến sĩ khoa học danh dự.
Theo Hàm Châu
DVT
Nhà vật lý danh tiếng người Việt tại Pháp
Là thủ khoa kỳ thi tú tài năm 1954 toàn vùng Hà Nội, đến nay GS Phạm Xuân Yêm đã có hơn 100 công trình nghiên cứu vật lý đăng trên các tạp chí khoa học uy tín toàn cầu, như một sự góp mặt đáng tự hào của người Việt trong cộng đồng khoa học thế giới.
Là một nhà vật lý danh tiếng, nguyên giám đốc nghiên cứu trung tâm Nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp (CNRS), giáo sư đại học Paris VI, từ xa ông vẫn đau đáu với những vấn đề nóng của đất nước.
Trong môi trường đầy thách thức tại trung tâm khoa học số một của thế giới, làm thế nào một nhà khoa học Việt Nam có được tiếng nói riêng?
Thật khó nói. Riêng nhóm vật lý lý thuyết thuộc đại học Paris VI gồm khoảng 40 giảng viên - nghiên cứu (mà tôi là một thành viên), có chừng mươi quốc tịch đến từ bốn châu lục Âu, Mỹ, Á, Phi. Đó là một môi trường cạnh tranh lành mạnh và khắc nghiệt theo tiêu chuẩn quốc tế, sự tuyển chọn đều công khai, không hề có một đặc chế về vấn đề quốc tịch. Có được tiếng nói riêng của mình là do rèn luyện bền bỉ để có hay không khả năng chuyên môn cao, hoà nhập với cộng đồng.
Có lẽ đối với bất kỳ nhà nghiên cứu bình thường nào, phần thưởng lớn nhất nhận được là khi công trình của mình được đồng nghiệp khắp nơi quan tâm và triển khai mạnh hơn nữa, được trích dẫn nhiều lần, thậm chí vài chục năm sau còn được nhắc đến và khai thác. Cá nhân tôi cũng vài lần hạnh phúc như vậy.
Làm thế nào để cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam tại Pháp cũng như ở các nước khác có thể đóng góp lớn vào khoa học quốc tế?
Câu hỏi khó vì theo tôi, muốn có đóng góp lớn vào khoa học quốc tế, thì phải có một số lượng tới hạn nào đó để tạo nên một cú hích, mà con số đó ta chưa đạt được, không chỉ ở Pháp mà ở nhiều nước phát triển khác cũng vậy. Nhìn con số các sinh viên Việt Nam theo lớp cao học, tiến sĩ về khoa học và công nghệ cao ở vài trường lớn tại Mỹ (như Harvard) thì thấy mình hãy còn quá ít so với Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ. Hiện tượng Ngô Bảo Châu phải hàng thập niên, thậm chí dài hơn nữa, mới có thể lập lại trong cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam.
Trong điều kiện của đất nước, tư chất nào của các nhà khoa học Việt Nam giúp chúng ta có được những tên tuổi lớn?
Muốn có những nhà khoa học tên tuổi tại quê nhà, xã hội cần có cơ sở hạ tầng tri thức tốt, hiện đại; có những thể chế học thuật phù hợp với quy luật phát triển của khoa học trên thế giới. Và con người cần phải có đam mê, tận tuỵ. Nhưng trước hết nhà khoa học cần phải đủ sống, và có quỹ để phát triển ngành mình, kết nối thế giới. Không có những điều kiện đó, khoa học sẽ bó tay, sẽ không thể có nền khoa học quốc gia, mà chỉ có những cá nhân riêng lẻ, nhưng phải dựa vào môi trường nước ngoài như hiện nay.
Tôi tin chắc rằng trong môi trường thuận lợi và cạnh tranh ráo riết nhưng lành mạnh ở các nước phát triển, thế hệ các bạn trẻ Việt Nam du học còn vươn hơn nữa so với thế hệ trước. Tôi có thấy những gương mặt đó như Đinh Tiến Cường, Nguyễn Tiến Dũng về toán, Đặng Đình Thi về công nghệ hàng không, Nguyễn Thắng về sinh học, Giáp Văn Dương, Lê Đức Kiên về vật lý, nhưng chắc chắn còn nhiều mà tôi chưa biết ở mọi ngành.
Theo ông, làm thế nào để bảo vệ tinh thần tự chủ và tự do trong môi trường học thuật?
Môi trường xã hội Việt Nam đang bị "méo mó" trong hầu hết mọi lãnh vực: con người, đạo đức, nhận thức, tôn chỉ giáo dục... tất cả đều méo mó quá độ. Dân chủ, giáo dục, khoa học và công nghệ là những cột trụ của xã hội phương Tây để làm cho họ mạnh. Những thứ đó đang bị xuống cấp và biến dạng ở nước ta. Việc quan trọng nhất là phải "kéo thẳng" những thứ đó lại, phải "ngay thẳng" lại, phải chăm sóc cho những thứ đó phát triển đúng cách. Mỗi quốc gia muốn canh tân, đều phải đi đúng quy luật. Nhật Bản và tất cả các quốc gia khác đều làm như thế.
Ông coi trọng điều gì nhất khi viết? Có nhà văn nào ông ngưỡng mộ?
Rất ngại phải nói đến cái ngã đáng ghét, nhưng thôi cũng đành liều nhắm mắt đưa vài nét sở thích. Cũng như nhiều bạn cùng lứa tuổi, tôi mê say thi văn tiền chiến, thơ Đường, nhạc cổ điển Tây phương... Hai nhà văn hoá cận đại mà tôi ngưỡng mộ là Nguyễn Hiến Lê sâu sắc, đồ sộ mà dễ hiểu; và Bùi Giáng khi điên lúc tỉnh mà tuyệt phẩm Giảng luận về Tản Đà ai cũng nên đọc.
Không có khoa học, con người dễ sa ngã vào mê tín, "dị giáo". Nhưng không có văn hoá, nghệ thuật, con người dễ cằn cỗi về tâm hồn. Và không có đạo đức, con người dễ sa đoạ.
GS Phạm Xuân Yêm (thứ ba từ phải) cùng gia đình.
Ông đánh giá thế nào về hiện tượng những nhà khoa học cuối cùng lại trở thành những nhà văn hoá, đầy trách nhiệm với đất nước trong những vấn đề nóng của đời sống nhân sinh?
Thử hỏi có nhà khoa học nào từng bao năm sinh hoạt ở các nước phát triển mà chẳng ước mong đóng góp cho đất nước, dân tộc mình cũng được như người? Nó tự nhiên như hơi thở mà thôi. Để kết nối nhiều nguồn chất xám cho hoạt động khoa học tại Việt Nam, mấy đức tính như chân thành, bao dung, nhún nhường, tránh đố kỵ có lẽ là những điều kiện cần? Mấy năm qua trí thức đã kết nối nhau nhiều hơn qua nhiều hoạt động, như dịch thuật, biên soạn, giảng dạy, diễn thuyết, hay làm những số kỷ yếu, như Kỷ yếu Lê Thành Khôi, Kỷ yếu Hoàng Tuỵ, Max Planck, Galilei, Darwin và Đại học Humboldt 200 năm để tạo ra một văn hoá trí thức. Họ càng muốn dấn thân hơn cho đất nước. Nhà nước cần mở cửa với trí thức. Đất nước chỉ có lợi trong một sự hợp tác giữa nhà nước và với trí thức, hay ngược lại. "Tri thức là sức mạnh", đối với cá nhân cũng như đối với quốc gia. Để quy tụ được tiềm năng chất xám quý báu của các thành phần đến từ nhiều chân trời văn hoá khác nhau trong cộng đồng ba triệu người Việt trên khắp năm châu, các nhà khoa học cần tìm đến nhau để có diễn đàn chung, để tập hợp trí tuệ, đoàn kết, và có những hoạt động chung. Việc này đã manh nha thời gian qua, qua các hoạt động biên soạn kỷ yếu chẳng hạn. Và trí thức đã tức khắc có những hành động chống đối việc các nhà khoa học Trung Quốc lồng đường lưỡi bò vào các bài viết của họ đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế.
Ông nghĩ gì khi tiếng nói của những nhà trí thức vẫn chưa đủ sức lay động xã hội?
Tôi cảm thấy buồn, nhưng chúng ta đang ở bước ngoặt, sớm muộn gì những giá trị phổ quát đó sẽ đến. Chúng ta không thể nào đi khác hơn con đường thế giới đã và đang đi, không thể nào chối bỏ các giá trị phổ quát của cả thế giới, nền tảng của sự phát triển nói chung.
Ông thích một vẻ đẹp như thế nào của con người, của văn chương, nghệ thuật? Có lẽ là tính nhân bản vị tha chăng? Để xây dựng môi trường sống lành và sạch, mỗi chúng ta phải nỗ lực như thế nào, theo ông?
Tôi thực sự buồn khổ khi biết những tin tức về sự thờ ơ, vô cảm đang lan tràn xã hội. Thôi thì trước hết mỗi chúng ta trong khả năng của mình hãy nỗ lực sạch và lành đã. Xã hội dựa trên hai trụ cột: tri thức và lòng trắc ẩn. Lòng trắc ẩn mà không có tri thức thì vô dụng, còn tri thức mà không có lòng trắc ẩn sẽ là vô nhân đạo và độc ác.
Những kỷ niệm nào đáng nhớ nhất về mái trường Chu Văn An - Hà Nội, nơi ông đã lớn lên? Phải chăng ân tình với trường xưa là lý do ông hết lòng giúp đỡ sinh viên và nhiều trường hợp khó khăn của trí thức trong nước?
Còn nhớ năm 1953, tôi được giải về luận văn trong cuộc thi hàng năm trung học toàn quốc và được hưởng chuyến du ngoạn bằng máy bay tham quan Sài Gòn và Huế do hội phụ huynh học sinh tặng. Sau này trở lại thăm bạn bè cùng học Chu Văn An, thực là xúc động thấy các bạn, đặc biệt GS Đặng Mộng Lân trong muôn vàn khó khăn đã thực hiện cuốn từ điển Vật lý Anh - Việt và âm thầm đóng góp cho nền vật lý. Đỡ được ai phần nào là như trả món nợ ân tình với thầy với bạn thiếu may mắn đã cho mình những kỷ niệm quý báu.
Ông có thể kể một chút về cha mẹ mình, những người thầy đầu tiên dạy ông bài học làm người?
Nhà tôi ở Bắc Ninh, bố tôi là hiệu trưởng trường tiểu học Vọng Cung, ru tôi ngủ bằng thơ Kiều. Còn mẹ tôi có một cửa hàng nhỏ bán tạp hoá, nước mắm, chè mạn, măng khô... Trong nạn đói Ất Dậu 1945, với chum đất nung cao hơn đầu tôi, mẹ tôi mỗi sáng nấu một nồi cháo thêm vào chút mắm để phát chẩn. Quên sao nổi cảnh người hàng hàng nối nhau húp cháo.
Để nuôi dưỡng "giấc mộng dài", ông đã trải qua những khó khăn khắc nghiệt như thế nào?
Tôi không nghĩ là khắc nghiệt những buổi làm việc thâu đêm, hoặc mệt mỏi tranh cãi với đồng nghiệp, bạn bè về đề tài nghiên cứu vì mỗi người có một cách tiếp cận khác nhau. Nhưng có nhiều lúc, thậm chí hàng tuần hàng tháng chán chường, bế tắc, không thấy ngõ ra, không biết phải làm gì. Có lẽ chẳng phải riêng tôi mà bất cứ ai trong nghề cũng ít nhiều trải qua. Nhưng tôi không mong "làm cây thông đứng giữa trời mà reo" ở kiếp sau và mong tiếp tục mê say khoa học và nghiên cứu.
Trong những lúc cùng cực nhất, điều đã giúp ông vượt qua khủng hoảng?
Triết lý phương Tây dạy tôi tư duy logic, khoa học, tôn trọng và biết nhìn nhận sự thật, khiêm tốn trước "đại dương tri thức" còn ẩn chứa. Triết lý phương Đông dạy cho tôi sống có xã hội, gia đình, cộng đồng, có trách nhiệm và đóng góp xã hội.
Sau những đắng ngọt của cuộc đời, đọng lại trong ông điều gì quý nhất? Có bao giờ ông cảm thấy quá cô đơn?
Cái quý nhất còn đọng lại là những đóng góp cá nhân trong khoa học cũng như trong xã hội là sống chân thật, có bằng hữu; là sống tự tại. Cái ác là gió thoảng qua. Cái thiện là vĩnh cửu.
Theo Kim Yến
SGTT
Những nhà toán học... giỏi toán Một nhà toán học và một nhà văn bị một bộ tộc da đỏ bắt. Tù trưởng của bộ lạc này là một người rất thông minh và cũng đã từng được học hành. Sau khi bỏ đói ba ngày, tù trưởng cho lính dắt nhà toán học vào một căn phòng và bảo ông ta sắp được ăn. Nhà toán được đặt...