GS Trần Ngọc Thêm: “Đại học quốc gia phải là nơi đào tạo chính khách”
Theo GS Trần Ngọc Thêm, đại học quốc gia (ĐHQG) theo nghĩa hẹp của Việt Nam hay ĐHQG hàng đầu như cách hiểu của quốc tế thì mô hình ĐH này sẽ không bao giờ chết được. Hãy trả chức năng đào tạo chính khách cho ĐHQG như cách mà quốc tế đang làm.
Mô hình đại học 4.0 áp dụng, triển khai trong điều kiện Việt Nam thế nào? Tại hội thảo bàn về vấn đề này do ĐHQG TPHCM tổ chức đầu tuần này, nhiều chuyên gia và lãnh đạo các trường ĐH cùng thảo luận để tìm ra những giải pháp phù hợp nhất trong bối cảnh mới.
Phát biểu tại hội thảo này, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, giảng viên cao cấp Trường ĐH KHXH&NV TPHCM góp ý kiến cho mô hình ĐHQG sẽ cần giải quyết trong tương lai.
GS Trần Ngọc Thêm cho rằng “hãy trả chức năng đào tạo chính khách về cho các ĐH hàng đầu kiểu như một số nước đã làm
GS Thêm cho rằng, khái niệm ĐHQG hiện có 2 cách hiểu, trong đó nếu hiểu theo quốc tế thì đó là một ĐH của nhà nước, còn hiểu theo cách Việt Nam thì đó là những ĐH nhà nước hàng đầu.
“Tôi nghĩ đối với những ĐH bình thường chỉ hướng đến giáo dục đào tạo nghiên cứu ứng dụng thì vai trò của nó có thể sẽ giảm đi cùng theo sự phát triển của công nghệ và không thể dự đoán trước được. Tuy nhiên, ĐHQG theo nghĩa hẹp hay ĐHQG hàng đầu như cách hiểu của các nước thì mô hình ĐH này sẽ không bao giờ chết được”, GS Trần Ngọc Thêm khẳng định.
Theo ông Thêm lý giải, ĐHQG của thế giới hay của Việt Nam đều có hai nhiệm vụ hàng đầu là đào tạo ứng viên các giải Nobel và đào tạo chính khách. Đối với nhiệm vụ đào tạo ứng viên các giải Nobel, ông Thêm khẳng định rằng “điều này thì các ĐH thường sẽ không bao giờ làm mà họ tập trung vào ứng dụng, còn đào tạo các ứng viên giải Nobel là phải tương tác trực tiếp, thiên về phương pháp, nếu không thầy cũng như sự giao lưu tại lớp học thì sẽ không làm được”.
Còn đối với nhiệm vụ đào tạo chính khách, GS Thêm cho rằng đây cũng là một dạng nghiên cứu ứng dụng đặc biệt, đòi hỏi nhà chính khách có nền học thức rất rộng và có kỹ năng tư duy ứng phó rất nhanh đòi hỏi phải có sự luyện tập. Ông Thêm cho rằng hệ thống đào tạo chính khách ở Việt Nam thời gian qua không làm được những chức năng này. Ông khẳng định rằng tương lai hãy trả chức năng đào tạo chính khách về cho các ĐH hàng đầu kiểu như một số nước đã làm, có như vậy thì GD ĐH nước ta mới phát triển được. Còn với tình hình như hiện nay thì vẫn sẽ còn lúng túng hoài mà nguyên nhân chính là không ai chủ động cùng hướng vào một mục tiêu chung.
Video đang HOT
“Nếu như TS Nguyễn Thanh Phượng chia sẻ kinh nghiệm của ĐH Arizona là “cả trường đều cùng nhìn về một mục tiêu thì sẽ thành công”, nhưng ở Việt Nam thì cả trường không nhằm cùng vì một mục tiêu mà không thể nào làm được điều đó nếu không ép”, ông Thêm nói.
Đồng thời, ông Thêm cũng nhận định, “muốn đào tạo có chất lượng thì kinh phí ĐHQG phải gấp 3 lần hiện nay, trong đó kinh phí từ ngân sách nhà nước phải tăng gấp đôi. Vì nếu các ĐH thường có thể bù kinh phí bằng các nguồn học phí thì ĐHQG sẽ không làm được điều đó. Bởi, đào tạo các ứng viên giải Nobel hoặc đào tạo chính khách thì số lượng không nhiều, khó trông chờ vào nguồn học phí”.
Theo GS Trần Ngọc Thêm, giải pháp mà các ĐHQG trên thế giới đã làm là doanh nghiệp sẽ sử dụng các sáng chế của sinh viên tạo ra và đóng góp kinh phí trở vào. Đồng thời, 2 mục tiêu mà ĐHQG đào tạo ra đều phục vụ cho nhà nước thì nhà nước phải bỏ kinh phí bù vào việc đào tạo này. Ngoài ra, có thể khai thác bằng hình thức xã hội hóa từ các tập đoàn muốn đóng góp tự nguyện vào.
TS Nguyễn Thanh Phượng, Giám đốc quốc gia, ĐH bang Arizona (Mỹ)
Trong khi đó, TS Nguyễn Thanh Phượng, Giám đốc quốc gia, ĐH bang Arizona (Mỹ) chia sẻ mô hình thành công của ĐH bang Arizona với đặc trưng là doanh nghiệp tri thức. Bà Phượng cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng được mô hình này. Bởi đây là mô hình mới được phát triển thay thế cho mô hình giáo dục truyền thống đã không còn phù hợp, do xã hội đang diễn ra sự thay đổi nhanh chóng ở mọi lĩnh vực. Theo TS Thanh Phượng, yếu tố đầu tiên là các trường phải có mục đích rõ ràng và mục đích này cần được chia sẻ thật kỹ với giảng viên, sinh viên trong trường để cùng thực hiện. Mục đích quan trọng sẽ gồm 3 nội dung là tăng cường phục vụ càng nhiều sinh viên và giúp họ thành công; nghiên cứu phải giải quyết được những vấn đề thực tiễn và nhà trường sẽ phục vụ cộng đồng.
Lê Phương
Theo Dân trí
Có mặt trong tốp 1.000 trường hàng đầu thế giới, 2 đại học quốc gia được duy trì
Giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật Giáo dục (sửa đổi), Chủ nhiệm UB Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình nhận định, sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, mô hình hai ĐHQG đã ổn định và mang lại kết quả nhất định, có mặt trong danh sách 1.000 trường đại học hàng đầu thế giới.
Đại học được tự lập trường trực thuộc
Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, Chủ nhiệm UB Văn hoá, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội Phan Thanh Bình cho biết, sau khi tiếp thu ý kiến của nhiều đại biểu, dự luật đã quy định rõ hệ thống GDĐH Việt Nam bao gồm: trường đại học, học viện (gọi chung là trường đại học); đại học (là tổ hợp các trường đại học; trường trực thuộc) và các cơ sở GDĐH khác phù hợp với quy định của pháp luật.
"Hạt nhân cơ bản của hệ thống là trường đại học với cơ cấu tổ chức chuẩn mực theo thông lệ quốc tế" - ông Bình nêu rõ. Còn học viện được điều chỉnh chung với trường đại học do đây chỉ là tên gọi của một số cơ sở GDĐH đã hình thành và đang tồn tại trong thực tiễn mà không có sự khác biệt so với trường đại học cả về cơ cấu tổ chức, chức năng, sứ mệnh.
Khái niệm "đại học", sau khi được chỉnh lý, được hiểu là nhóm các trường đại học, viện nghiên cứu thành viên; trường và các đơn vị trực thuộc khác, cùng hoạt động trong một khuôn khổ pháp lý nhằm gia tăng giá trị, khả năng cạnh tranh và đóng góp của toàn hệ thống đối với xã hội.
Chủ nhiệm UB Văn hoá, Xã hội, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng Phan Thanh Bình cũng từng làm Giám đốc ĐH Quốc gia TPHCM.
Dự luật cũng quy định nguyên tắc để các trường đại học và đại học tự chủ quyết định mô hình và cấu trúc của cơ sở GDĐH. Theo đó, các trường đại học có thể tự phát triển và thành lập các trường trực thuộc bên trong (theo điều kiện, tiêu chuẩn do Chính phủ quy định) để trở thành đại học; hoặc trên cơ sở tự nguyện hay được Nhà nước quy định, các trường đại học được sáp nhập với nhau để trở thành một đại học. Các đại học quyết định cấu trúc và cơ chế quản lý của mình theo quy định pháp luật.
Trước những băn khoăn về mô hình tổ chức của đại học quốc gia (ĐHQG), đại học vùng, ông Phan Thanh Bình giải thích, các mô hình này không mới mà đang là xu hướng phát triển nhằm hình thành các hệ thống đại học liên ngành, tạo sức mạnh tổng hợp để giải quyết những nhiệm vụ, yêu cầu mới về phát triển khoa học và công nghệ và cạnh tranh thế giới.
Ở Việt Nam, sau hơn 20 năm xây dựng và phát triển, mô hình hai ĐHQG đã ổn định và mang lại kết quả nhất định cả về chuyên môn, khoa học lẫn quản lý, đi đầu trong hệ thống giáo dục đào tạo với việc có mặt trong danh sách 1000 trường đại học hàng đầu thế giới.
Những vấn đề tồn tại của các đại học vùng hiện nay, theo ông Bình, có nguyên nhân chủ yếu do chính sách và cơ chế quản lý chưa phù hợp. Do đó, dự Luật quy định hành lang pháp lý thuận lợi cho các cơ sở này tự chủ, tự quyết định cơ chế quản lý, phát huy thế mạnh của tổ hợp các trường đại học mạnh.
Trách nhiệm giải trình của trường đại học tự chủ
Đây là yêu cầu đặt ra đối với các cơ sở GDĐH khi thực hiện tự chủ đại học. Theo yêu cầu của nhiều đại biểu, dự luật đã chỉnh lý theo hướng giải thích rõ khái niệm tự chủ; quy định điều kiện, yêu cầu để được tự chủ.
Cùng với đó, các nội dung tự chủ về chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính và tài sản cũng được cụ thể hoá trong dự luật. Đặc biệt, khái niệm trách nhiệm giải trình và các nội dung về chất lượng, học phí, kết quả kiểm toán mà nhà trường phải thực hiện công khai, minh bạch với người học, xã hội, cơ quan quản lý và các bên có lợi ích liên quan đã được làm rõ.
Liên quan đến tài chính và tài sản, dự luật bổ sung theo hướng xác định trách nhiệm của Nhà nước trong đầu tư phát triển GDĐH, quy định phương thức phân bổ ngân sách thông qua các hình thức: chi đầu tư, chi nghiên cứu phát triển, đặt hàng nghiên cứu, đào tạo, học bổng, tín dụng sinh viên theo nguyên tắc cạnh tranh, bình đẳng, hiệu quả.
Về học phí, dự luật quy định đây là khoản thu mà người học phải nộp cho cơ sở GDĐH để bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo. "Mức thu học phí được xác định trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật theo lộ trình tính đủ chi phí đào tạo theo quy định của pháp luật" - ông Bình nhấn mạnh, đồng thời cho biết, cơ sở GDĐH phải công khai chi phí đào tạo, mức thu học phí và các khoản thu dịch vụ khác cho từng năm học và cho cả khoá học cùng với thông báo tuyển sinh.
Về quản lý, sử dụng tài sản, dự luật quy định tài sản do Nhà nước đầu tư, giao cho cơ sở GDĐH được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật về quản lý tài chính, tài sản công. Nhà trường được phép sử dụng một phần tài sản được giao vào kinh doanh, cho thuê, liên kết nhằm mục đích phát triển GDĐH theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển.
Đối với việc phát triển hệ thống đại học tư thục, các khái niệm về trường tư thục, trường tư thục không vì lợi nhuận đã được làm rõ cùng quy định Nhà nước có chính sách ưu tiên, khuyến khích phát triển các cơ sở GDĐH tư thục hoạt động không vì lợi nhuận.
"Dự luật hướng đến việc quy định rõ mô hình và cơ chế tài chính của cơ sở GDĐH tư thục vận dụng theo mô hình doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo tính đặc thù của GDĐH và không thương mại hoá, theo đó quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của nhà đầu tư thành lập cơ sở GDĐH tư thục và mối liên quan với Hội đồng trường tư thục; yêu cầu các cơ sở GDĐH tư thục phải trích tối thiểu 25% chênh lệch thu chi để tái đầu tư cho hoạt động giáo dục" - ông Bình cho biết.
P.Thảo
Theo Dân trí
Mô hình đại học "lạ" chỉ có ở Việt Nam (!?) Tranh luận về mô hình tổ chức hệ thống giáo dục đại học khi góp ý cho dự thảo luật Giáo dục đại học (sửa đổi) sáng nay, 6/11, đại biểu Quốc hội đặt vấn đề, Việt Nam có những mô hình "lạ", không có ở đâu trên thế giới, như đại học vùng... Đại biểu Nguyễn Tuấn Anh (Long An) Đại biểu...