Giáo viên với sứ mệnh đặc biệt hậu Covid-19
Các nhà giáo dục đã vượt qua khó khăn trong thời kỳ đại dịch.
Giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sức khỏe tình cảm – xã hội cho người học.
Khi Covid-19 bùng phát, giáo viên nhanh chóng thích nghi với việc giảng dạy từ xa, giải quyết nhiều vấn đề kỹ thuật, đồng thời tạo động lực, khuyến khích học sinh tham gia vào những thời điểm không chắc chắn.
Kiệt sức hậu Covid-19
Mặc dù mối đe dọa về sức khỏe cộng đồng vẫn chưa hết, đặc biệt là đối với những trẻ nhỏ không thể tiêm chủng, nhiều trường học đang hoạt động bình thường trở lại. Song, đó là nơi giáo viên sẽ tiếp tục đối mặt với những thách thức. Trong hai năm qua, đại dịch đã khiến giáo viên trên toàn thế giới phải đối mặt với mất mát do các trường đóng cửa, sức khỏe tình cảm – xã hội của học sinh bị ảnh hưởng.
Giáo viên cũng phải linh hoạt, kết hợp giảng dạy từ xa và trực tiếp, tăng cường biện pháp phòng chống Covid-19. Hiện, nhiều giáo viên rơi vào tình trạng kiệt sức do những khó khăn trong năm học qua. Trong bối cảnh đó, phát triển chuyên môn được cho là quan trọng hơn bao giờ hết đối với các nhà giáo.
Kể từ khi đại dịch bùng phát, các nhà giáo dục đã phải đảm nhận nhiều trách nhiệm mới. Cho dù đó là cố gắng giảng dạy từ xa trong thời kỳ đại dịch hay kiểm soát căng thẳng, phạm vi giảng dạy vẫn tiếp tục mở rộng.
Hiện, nhiều người cho rằng, phần lớn giáo viên có thể sử dụng công nghệ một cách chuyên nghiệp. Tuy nhiên, thực tế, giáo viên đã phải học cách thích nghi với việc giảng dạy từ xa một cách nhanh chóng.
Vì vậy, mặc dù giờ đây giáo viên có thể đã quen khi làm việc với công nghệ, nhưng đó vẫn có thể là một thách thức. Đặc biệt, giáo viên giảng dạy những học sinh dễ bị tổn thương là người đối mặt với nhiều khó khăn.
Ngay cả khi đại dịch lắng xuống, một số khu học chánh tại Mỹ cho biết vẫn tiếp tục cung cấp hình thức học tập từ xa. Việc phát triển chuyên môn liên tục có thể giới thiệu cho giáo viên những công cụ hiệu quả hơn. Đồng thời, giúp giải quyết những điểm khó khăn và làm cho công nghệ trở thành một cải tiến đáng hoan nghênh trong việc giảng dạy, thay vì là rào cản mới cần vượt qua.
Đại dịch Covid-19 khiến quá trình học tập của trẻ em trên toàn thế giới bị gián đoạn.
Kỹ năng mới của giáo viên
Video đang HOT
Các nhà nghiên cứu đã vẽ ra một bản đồ giáo dục của các quốc gia và cộng đồng với những khoảng thời gian mà hoạt động giáo dục bị ngừng trệ hay mất đi vì Covid-19. Theo đó, trong 23 tháng đầu tiên của đại dịch Covid-19, trung bình học sinh trên toàn thế giới mất khoảng 8 tháng học tập, với sự chênh lệch đáng kể. Ở Bắc Mỹ và châu Âu là hơn 4 tháng, trong khi Nam Á, Nam Mỹ và vùng Caribe là hơn một năm. Con số này ở Nhật Bản và Australia chỉ là hơn 2 tháng. Trong khi đó, Philippines và Indonesia có thể đã ngừng trệ tới hơn 12 tháng.
Ngay cả với những nỗ lực không ngừng của các nhà giáo dục, đại dịch đã gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần của nhiều học sinh. Việc đóng cửa trường học và giãn cách xã hội đã làm suy giảm sức khỏe tinh thần và tình cảm của nhiều học sinh.
Do đó, các nhà nghiên cứu và chuyên gia giáo dục đã kêu gọi trường học giải quyết những nhu cầu cảm xúc này một cách trực tiếp trong lớp học. Mặc dù cách tiếp cận này có thể hiệu quả, nhưng nó đòi hỏi giáo viên phải có thêm các kỹ năng mới thông qua phát triển chuyên môn.
Dữ liệu về ảnh hưởng do Covid-19 vẫn tiếp tục được thu thập. Tới nay, tác động đầy đủ do đại dịch gây ra vẫn chưa được biết hết. Song, các nhà nghiên cứu dự đoán, rõ ràng là đại dịch đã và sẽ tiếp tục gây ra mất mát đáng kể trong học tập.
Do đó, hơn 20% quỹ cứu trợ khẩn cấp tiểu học và trung học (ARP ESSER) tại Mỹ đã được dành để chống lại tình trạng gián đoạn học tập ở trẻ. Mối quan tâm đặc biệt là tình trạng gián đoạn học tập của người da màu và bản địa.
Ví dụ, một nghiên cứu năm 2020 cho thấy, Covid-19 có thể khiến người học da màu tiếp thu kiến thức chậm hơn từ 6 – 12 tháng vào tháng 6/2021. Trong khi đó, con số này ở học sinh da trắng là 4 – 8 tháng.
Trong bối cảnh này, các học khu tại Mỹ có toàn quyền sử dụng quỹ để giải quyết tình trạng gián đoạn học tập. Đồng thời, tập trung vào các nhu cầu xã hội và tình cảm của học sinh, cụ thể là trẻ em da màu và bản địa.
Nghiên cứu xác nhận rằng, chất lượng giáo viên là “yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến kết quả giáo dục của học sinh”. Vì vậy, điều quan trọng là tạo điều kiện để giáo viên khắc phục hậu quả, giải quyết tình trạng gián đoạn học tập do đại dịch gây ra.
Chú trọng phát triển chuyên môn
Nhu cầu xã hội và tình cảm của các nhà giáo dục cũng cần được coi là một phần của quá trình phát triển nghề nghiệp. Lý do là bởi, ngày càng có nhiều lời kêu gọi giáo viên cung cấp hỗ trợ cho học sinh. Trong khi thực tế là, các nhà giáo cũng bị ảnh hưởng nặng nề bởi sự tàn phá của đại dịch, bao gồm đối phó với căng thẳng, chấn thương và mất đi những người thân yêu, đồng nghiệp do Covid-19.
Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, những giáo viên phát triển các kỹ năng học tập – cảm xúc xã hội đã cải thiện sức khỏe của họ. Những giáo viên này thậm chí cũng cải thiện sự phát triển xã hội, cảm xúc và khả năng học tập của học sinh.
Ngược lại, các nghiên cứu cũng cho thấy, giáo viên được yêu cầu dạy học tập tình cảm – xã hội mà không được cung cấp cơ hội chuyên môn để phát triển kỹ năng sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực tới học sinh. Bộ Giáo dục Mỹ đã xác nhận, quỹ có thể và nên được sử dụng để hỗ trợ các nhu cầu xã hội và tình cảm của các nhà giáo dục và nhân viên.
Các trường học và học khu tại Mỹ phải đầu tư vào các nhà giáo dục của họ. Nhờ đó, đảm bảo rằng hệ thống giáo dục có thể phục hồi hoàn toàn sau các tác động của đại dịch. Sự phát triển chuyên môn của giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết tình trạng gián đoạn học tập và những thách thức.
Tranh cãi việc cấm học sinh mang smartphone vào trường
Trong khi nhà trường cố gắng hạn chế học sinh sử dụng điện thoại tại trường do lo ngại thiết bị này có thể gây phân tâm, phụ huynh lại phản đối, theo The Hill.
Trước đại dịch, nhiều trường học tại Mỹ đã cấm học sinh sử dụng điện thoại. Giờ đây, trong bối cảnh đại dịch mới được kiểm soát, sức khỏe tâm thần của học sinh còn nhiều bất ổn, nhà trường lại có thêm lý do để cấm học sinh sử dụng điện thoại di động do lo ngại thiết bị này có thể khiến học sinh phân tâm.
Tuy nhiên, nhiều phụ huynh và người giám hộ lại không đồng ý với điều này. Họ đã quá quen với việc giám sát con cái thông qua điện thoại trong quá trình học trực tuyến, cũng như lo ngại con mình rơi vào một vụ xả súng trong trường học.
Shannon Moser, phụ huynh của 2 đứa con đang học lớp 8 và lớp 9 ở Rochester, New York, cho biết bà cảm thấy phụ huynh bị tách khỏi con họ khi học khu con bà đang theo học bắt đầu cấm học sinh sử dụng điện thoại.
Trong bối cảnh các chủ đề như chủng tộc và hòa nhập ngày càng được xem xét cẩn thận, một số phụ huynh cũng cho rằng việc cấm sử dụng điện thoại di động có thể là một cách hạn chế giáo dục của con cái họ.
Nhà trường ủng hộ
Hơn một thập kỷ trước, khoảng 90% trường công lập cấm sử dụng điện thoại di động, nhưng tỷ lệ này đã giảm xuống còn 65% trong năm học 2015-2016. Theo Trung tâm Thống kê Giáo dục Mỹ, vào năm học 2019-2020, lệnh cấm đã được áp dụng ở 76% trường học. Gần đây, các bang California và Tennessee cũng đã thông qua luật cho phép trường học cấm điện thoại.
Đặc biệt, giờ đây, trong bối cảnh hậu đại dịch, các nhà giáo dục nhận thấy cần phải duy trì nhiệm vụ học tập của học sinh do nhiều học sinh bị hổng kiến thức nặng sau thời gian dài phải học trực tuyến do đại dịch.
"Khách sạn điện thoại", nơi cất điện thoại của học sinh trong giờ học, của một trường trung học tại bang Massachusetts. Ảnh: Education Next.
Liz Keren-Kolb, Phó giáo sư lâm sàng về Công nghệ giáo dục tại ĐH Michigan, cho hay bà hiểu tâm lý của phụ huynh khi không thể liên lạc được với con. Tuy nhiên, theo bà, họ nên thông cảm với quyết định của nhà trường, để con mình cất điện thoại và tập trung học hành.
Học khu Washington ở phía tây Pennsylvania đã thực hiện lệnh cấm điện thoại di động trong năm nay khi các nhà giáo dục nhận thấy thiết bị này ngày càng trở thành một trở ngại đối với việc học.
Trước đó, học sinh sử dụng điện thoại trong hành lang và canteen trường. Thậm chí, theo một giáo viên tiếng Anh, học sinh còn gọi điện về nhà và trả lời điện thoại ngay giữa giờ học. Giám thị George Lammay cho rằng lệnh cấm là lựa chọn đúng đắn.
"Chúng tôi đang tìm cách giúp học sinh tập trung học hành chứ không phải hạn chế sự giao tiếp của chúng với gia đình", ông nói.
Phụ huynh phản đối
Trong một số trường hợp, sự phản đối từ cha mẹ đã dẫn đến những điều chỉnh trong chính sách.
Học khu Brush ở Colorado đã cấm học sinh sử dụng điện thoại di động sau khi giáo viên bày tỏ lo ngại về việc bắt nạt trực tuyến. Khi phụ huynh lên tiếng, khu học chánh đã tổ chức cuộc họp hội đồng kéo dài hơn 2 giờ. Theo Giám đốc học khu Bill Wilson, điểm đáng chú ý nhất trong cuộc họp là các bậc phụ huynh muốn con cái họ có quyền truy cập vào điện thoại của chúng.
Sau đó, trường đã thay đổi quy định, cho phép học sinh đem theo điện thoại di động trong khuôn viên trường, miễn là chúng được tắt nguồn và khuất mắt giám thị. Một số ít học sinh có hoàn cảnh đặc biệt mới được cho phép sử dụng điện thoại.
"Điện thoại không xấu. Chúng tôi chỉ là đang quản lý để chúng được sử dụng một cách hiệu quả", Wilson nói.
Tại Học khu Richardson (Texas), học sinh bị cấm sử dụng điện thoại trong giờ học. Cán bộ nhà trường thậm chí còn đề xuất mua túi nam châm để niêm phong điện thoại trong giờ lên lớp.
Nhiều phụ huynh đã bày tỏ lo ngại về chi phí bỏ ra cho túi nam châm cũng như về sự an toàn của học sinh trong các trường hợp khẩn cấp. Học khu Richardson sau đó đã quyết định chỉ mua túi nam châm cho 1/8 trường trong học khu.
Học sinh lấy điện thoại được niêm phong trong túi nam châm. Ảnh: AP.
Trong các cuộc thảo luận trực tuyến của các nhà hoạt động phụ huynh (parent activists), có rất nhiều người ủng hộ lệnh cấm điện thoại di động. Tuy nhiên, một số người khác đã phản đối vì lệnh cấm có thể che giấu tình trạng bạo lực học đường.
Tuy nhiên, rất hiếm phụ huynh nào có động thái kiện cáo liên quan đến quy định cấm sử dụng điện thoại tại trường học.
Hồi 2006, một số phụ huynh tại New York đã từng nỗ lực kiện cáo về quy định này nhưng bất thành. Mãi đến năm 2015, New York cuối cùng cũng gỡ bỏ quy định này. Tuy nhiên, các đơn kiện chống lại lệnh cấm điện thoại di động ở trường học đã tăng lên trên Change.org trong năm nay, đại diện của tổ chức này cho hay.
Kolb cho biết không có quy định hoàn hảo nào cho việc sử dụng điện thoại di động trong trường học. Phản ứng của dư luận có thể đảo chiều tùy thuộc vào sự thay đổi của quan điểm sử dụng điện thoại trong trường học.
"Điều này thực sự phụ thuộc vào việc chúng tôi vận động cũng như giáo dục học sinh và phụ huynh về thói quen sử dụng thiết bị kỹ thuật số lành mạnh", cô nói.
'Chữa lành' cho giáo viên hậu Covid-19 Giáo viên thường được biết đến là những người tận tụy với nghề. Giáo viên phải thích ứng trong xã hội thay đổi nhanh chóng. Họ không chỉ truyền kiến thức, mà còn kêu gọi, khuyến khích học sinh tin tưởng vào bản thân. Thông qua niềm lạc quan và hy vọng, giáo viên là những người có sức mạnh thay đổi thế...