Giáo viên mong mỏi nhất là Bộ dừng thực hiện các thông tư xếp hạng năm 2021
Có lẽ, các Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT mới là những văn bản mà giáo viên mong muốn ‘ngưng’ hiệu lực quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo nhất.
Ngày 20/10/2021, Bộ ban hành Thông tư số 29/2021/TT-BGDĐT Quy định ngưng hiệu lực quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo tại một số Thông tư do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành nhưng nó nhiều nhà giáo thấy hẫng hụt, tiếc nuối.
Bởi, điều mà nhiều giáo viên cần nhất, chờ đợi nhất là Bộ “ngưng” quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo tại chùm Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các trường từ mầm non đến trung học cơ sở công lập nhưng lại…không thấy.
Hàng trăm ngàn nhà giáo thiếu chuẩn trình độ theo hướng dẫn của Luật Giáo dục năm 2019 và chùm Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT rất muốn Bộ kiến nghị và bổ sung “ngưng” quy định về chuẩn trình độ đào tạo tại các văn bản này vì nó liên quan trực tiếp đến việc chuyển hạng, xếp lương của giáo viên trong thời gian tới đây.
Chỉ tiếc, Bộ lại để ngỏ đối với chùm Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT được ban hành vào đầu tháng 2/2021.
Nhiều giáo viên từ cấp mầm non đến trung học cơ sở phải xuống hạng vì chưa đạt chuẩn trình đôẠ̉nh minh họa: Baodantoc.vn
Thông tư số 29/2021/TT-BGDĐT ngưng hiệu lực quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo ở những văn bản nào?
Tại Điều 1, Thông tư số 29/2021/TT-BGDĐT ban hành ngày 20/10/2021 hướng dẫn ngưng hiệu lực quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo ở những văn bản sau:
1. Ngưng hiệu lực quy định đạt chuẩn trình độ đào tạo tại điểm a khoản 3 Điều 4 Quy định chuẩn hiệu trưởng cơ sở giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 14/2018/TT-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Ngưng hiệu lực quy định đạt chuẩn trình độ đào tạo tại điểm a khoản 1 Điều 5 Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông ban hành kèm theo Thông tư số 20/2018/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
3. Ngưng hiệu lực quy định đạt chuẩn trình độ đào tạo tại điểm a khoản 3 Điều 4 Quy định chuẩn hiệu trưởng cơ sở giáo dục mầm non ban hành kèm theo Thông tư số 25/2018/TT-BGDĐT ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. Ngưng hiệu lực quy định đạt chuẩn trình độ đào tạo tại điểm a khoản 1 Điều 5 Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non ban hành kèm theo Thông tư số 26/2018/TT-BGDĐT ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
5. Ngưng hiệu lực quy định đạt trình độ chuẩn được đào tạo tại điểm a khoản 2 Điều 5 Quy định chuẩn giám đốc trung tâm giáo dục thường xuyên ban hành kèm theo Thông tư số 42/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Video đang HOT
6. Ngưng hiệu lực quy định đạt chuẩn trình độ đào tạo tại điểm b khoản 2 Điều 8, quy định đạt trên chuẩn trình độ đào tạo tại điểm a khoản 2 Điều 13 và điểm a khoản 2 Điều 18 Quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số 17/2018/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
7. Ngưng hiệu lực quy định đạt chuẩn trình độ đào tạo tại điểm b khoản 2 Điều 8, quy định trên chuẩn trình độ đào tạo tại điểm a khoản 2 Điều 13 Quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học ban hành kèm theo Thông tư số 18/2018/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
8. Ngưng hiệu lực quy định đạt chuẩn trình độ đào tạo tại điểm b khoản 2 Điều 8, quy định đạt trên chuẩn trình độ đào tạo tại điểm a khoản 2 Điều 13 và điểm a khoản 2 Điều 18 Quy định về kiểm định chất lượng giáo dục và công nhận đạt chuẩn quốc gia đối với trường mầm non ban hành kèm theo Thông tư số 19/2018/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
9. Ngưng hiệu lực yêu cầu về đạt chuẩn trình độ đào tạo trong tiêu chuẩn đối với giáo viên giảng dạy các chương trình giáo dục thường xuyên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 16 Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục và quy trình, chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên ban hành kèm theo Thông tư số 42/2012/TT-BGDĐT ngày 23 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
10. Ngưng hiệu lực quy định đạt chuẩn trình độ đào tạo tại một số điều, khoản của Thông tư số 07/2016/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 3 năm 2016 Quy định về điều kiện bảo đảm và nội dung, quy trình, thủ tục kiểm tra công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ.
a) Điểm c khoản 1 Điều 3 (được đính chính bởi khoản 1 Điều 1 Quyết định số 1387/QĐ-BGDĐT ngày 29 tháng 4 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo);
b) Điểm b khoản 1 Điều 4 (được đính chính bởi khoản 2 Điều 1 Quyết định số 1387/QĐ-BGDĐT ngày 29 tháng 4 năm 2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo);
c) Điểm b khoản 1 Điều 5.
Như vậy, theo Thông tư số 29/2021/TT-BGDĐT thì có hơn chục văn bản mà Bộ ban hành đã được hướng dẫn ngưng hiệu lực quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo.
Giá như Bộ cũng ngưng hiệu lực quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo ở chùm Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT
Đọc Thông tư số 29/2021/TT-BGDĐT có lẽ nhiều nhà giáo nuối tiếc, hẫng hụt bởi trong hàng chục văn bản cũng quy định về chuẩn trình độ, cũng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành nhưng chùm Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐTthì Bộ lại không đề cập đến.
Trong khi, các Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT đang là điểm nghẽn, thể hiện nhiều bất cập nhất bởi việc giữ hạng, xếp lương mới đối với giáo viên ở cấp mầm non, tiểu học, trung học cơ sở đang gây tâm lý hoang mang đối với nhiều nhà giáo. Hàng trăm nhà giáo không đủ chuẩn trình độ ở 3 cấp học này sẽ bị xuống hạng thấp hơn khi các địa phương, trường học triển khai, thực hiện Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT.
Bởi, trong Thông tư số 01/2021/TT-BGDĐT quy định giáo viên mầm non hạng III (hạng thấp nhất) cũng đã yêu cầu trình độ: “Có bằng tốt nghiệp cao đẳng sư phạm giáo dục mầm non trở lên”. Đối với giáo viên tiểu học và trung học cơ sở được quy định chuẩn trình độ tại Thông tư 02, 03/2021/TT-BGDĐT là phải có bằng cử nhân trở lên.
Tuy nhiên, trong thực tế thì còn nhiều thầy cô giáo chưa đạt được chuẩn trình độ theo các Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT bởi do những năm trước đây ngành giáo dục có nhiều chính sách đào tạo, sử dụng nhân lực cho ngành khác nhau.
Chính vì vậy, những thầy cô này không đạt được chuẩn trình độ theo Luật Giáo dục năm 2019, cũng như trình độ tương ứng với hạng giáo viên mà họ đã được bổ nhiệm trước đây nên việc “rớt” hạng là điều chắc chắn. Việc xuống hạng ắt sẽ dẫn đến nhiều thua thiệt cho hàng trăm ngàn nhà giáo trong thời gian tới đây.
Chính vì thế, chúng tôi cho rằng việc Bộ vừa ban hành Thông tư số 29/2021/TT-BGDĐT cũng là điều phù hợp nhưng sẽ phù hợp hơn nếu cũng được áp dụng ở các Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT cho đến khi ngành thực hiện xong lộ trình nâng chuẩn cho giáo viên.
Bởi lẽ, trong tất cả các văn bản mà Bộ ngưng hiệu lực quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo thực ra không ảnh hưởng nhiều đến đội ngũ giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ.
Lúc này, Thông tư 01, 02, 03/2021/TT-BGDĐT mới là những văn bản mà giáo viên mong muốn “ngưng” hiệu lực quy định về chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo nhất. Chỉ tiếc, nó lại nằm ngoài những văn bản mà Bộ đã hướng dẫn trong Thông tư số 29/2021/TT-BGDĐT vừa qua.
Tài liệu tham khảo:
https://luatvietnam.vn/giao-duc/thong-tu-29-2021-tt-bgddt-bo-giao-duc-va-dao-tao-211387-d1.html
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Thông tư mỗi người hiểu một kiểu, giáo viên hạng II tức tưởi vì xuống hạng III
Thầy cô cho rằng, do hiểu sai quy định nên nhà trường đã vận dụng sai dẫn đến có giáo viên bị xuống hạng oan uổng, có giáo viên lại không được xét thăng hạng.
Ảnh minh họa
Giáo viên một số trường tiểu học tại thành phố Biên Hòa phản ánh về việc xét thăng hạng theo Thông tư số: 02/2021/TT-BGDĐT. Theo họ, do hiểu sai quy định nên nhà trường đã vận dụng sai dẫn đến có giáo viên bị xuống hạng oan uổng, có giáo viên lại không được xét thăng hạng.
Mục I, Điều 4 Thông tư quy định về việc thăng hạng giáo viên tiểu học (Ảnh chụp)
Thầy giáo H. (đề nghị không nêu tên) cho biết: "Tôi ra trường được 6 năm, đã giữ hạng II được 4 năm, hiện đang ăn mức lương 2.67. Nếu theo quy định của Thông tư 02/2021/TT-BGDĐT thì tôi có đầy đủ các yêu cầu nên phải được xét chuyển qua hạng II mới với hệ số lương là 4.0.
Thế nhưng, nhà trường lại chuyển tôi xuống hạng III với lý do chưa đủ năm công tác (và chưa đạt hệ số lương 3.99). Họ dẫn chứng mục Điều 4. Giáo viên tiểu học hạng II - Mã số: V.07.03.28 quy định:
i) Viên chức dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng II (mã số V.07.03.28) phải có thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên tiểu học hạng III (mã số V.07.03.29) hoặc tương đương từ đủ 09 (chín) năm trở lên (không kể thời gian tập sự), tính đến thời hạn nộp hồ sơ đăng ký dự thi hoặc xét thăng hạng.
Nhà trường cho rằng, tôi mới đi dạy được 6 năm, thiếu 3 năm theo quy định và mức lương chưa đạt 3.99 nên phải xuống hạng (?)
Bằng sự hiểu biết của mình, chúng tôi xin được phân tích vấn đề của thầy giáo H. và của không ít đồng nghiệp đang ở hạng II cũ nhưng chưa đủ 9 năm công tác mà bị đưa xuống hạng III như sau:
Mục I trong Điều 4. Giáo viên tiểu học hạng II - Mã số: V.07.03.28 quy định rất rõ: viên chức dự thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp . Những giáo viên muốn dự thi hoặc xét thăng hạng II đã đủ 09 (chín) năm trở lên (không kể thời gian tập sự).
Mục này được hiểu là dành cho những giáo viên đang ở hạng III muốn thăng lên hạng II chứ không dành cho giáo viên đang ở hạng II phải xuống hạng III mới.
Xét vào trường hợp thầy H. hiện thầy đã đi dạy được 6 năm và đã được thăng hạng II đến 4 năm không nằm trong quy định ở mục I của Điều 4. Vì thế, nếu nhà trường lấy mốc chưa đủ 9 năm công tác để hạ từ hạng II đang giữ xuống hạng III là hoàn toàn không hợp lý.
Việc giáng hạng như thế (trong khi tất cả các quy định về hạng II được nêu trong Thông tư số: 02/2021/TT-BGDĐT thì thầy giáo H. và một số đồng nghiệp đều đạt), dẫn đến quyền lợi của một số thầy cô giáo bị thiệt thòi rất lớn (thay vì chuyển qua hạng II mới sẽ nhận mức lương 4.0 thì xuống hạng III mức lương vẫn sẽ là 2.67 và theo lý giải của nhà trường khi nào thầy H. đạt bậc lương 3.99 mới được xét thăng lên hạng II, lúc này phải 11 năm sau).
Được biết, xét thăng hạng lần này, nhà trường chỉ xét cho những giáo viên có mức lương đã đạt 3.99 (tính đến ngày 1/4), có giáo viên ngày 1.5 mới đạt mức 3.99 cũng không được xét. Nhiều thầy cô giáo thắc mắc, không biết nhà trường dựa vào văn bản nào để làm như thế nhưng không nhận được câu trả lời thỏa đáng.
Theo quan điểm và hiểu biết của người viết thì hiện chưa có một văn bản nào quy định, giáo viên phải đạt mức lương 3.99 (đến thời điểm 1/4) mới được xét thăng hạng. Theo quy định về việc chuyển xếp lương giáo viên tiểu học hạng II cũ sang hạng II mới sẽ được xếp lương như sau.
Nhìn vào bảng xếp lương của giáo viên tiểu học theo Thông tư 02/2021 ở trên, ta thấy nếu giáo viên được thăng hạng II (mới) hoặc được chuyển từ hạng II (cũ) sang hạng II (mới) mà đang ở mức lương 2.67; 3.0; 3.33; 3.66; 3.99 đều được chuyển sang mức lương 4.0 mà không phải chỉ những giáo viên đang ở mức 3.99 (tính từ ngày ) như một số trường tiểu học tại thành phố Biên Hòa đang áp dụng.
Chính vì vậy, kính đề nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo có hướng dẫn cụ thể cho các địa phương về các tiêu chí chuyển hạng giáo viên theo các thông tư mới, để các nhà giáo đỡ thiệt thòi, tránh tối đa nghịch cảnh các nhà giáo lâu năm phải làm lại từ đầu và "mãi là người đến sau" vì các biến động chính sách mà Bộ ban hành.
(*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả.
Bộ nói bỏ các chứng chỉ nhưng lại đòi minh chứng, giáo viên biết tìm đâu ra? Đến nay, yêu cầu các chứng chỉ Ngoại ngữ, Tin học, chức danh nghề nghiệp đối với giáo viên gần như vẫn duy trì như cũ. Khi Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành bốn Thông tư: 01, 02, 03, 04/2021/TT-BGDĐT có hiệu lực từ ngày 20/3, nhiều giáo viên đã vui mừng, cảm ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo. Họ...