Giáo sư trẻ nhất Việt Nam: Tôi còn phải cố gắng nhiều hơn nữa!
Tân Giáo sư Nguyễn Quang Diệu (37 tuổi) là người trẻ nhất trong số 34 nhà giáo trở thành Giáo sư từ năm 2011. Điều đặc biệt nhất, năm 2007, anh cũng là Phó giáo sư trẻ nhất trong đợt phong hàm.
Hiện nay Tân Giáo sư Nguyễn Quang Diệu là Phó chủ nhiệm bộ môn Lý thuyết hàm, khoa Toán – Tin, trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Do đang công tác ở viện nghiên cứu Max-Planck, CHLB Đức nên anh không kịp về dự Lễ công nhận chức danh GS, PGS năm 2011 tổ chức vào ngày 12/11 tới tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội). Dân trí đã có cuộc trò chuyện với anh.
GS trẻ nhất Việt Nam năm 2011 Nguyễn Quang Diệu.
Được biết, anh là một trong hai phó giáo sư trẻ nhất năm 2007, năm nay, anh lại được phong là giáo sư trẻ nhất. Vậy khi trở thành GS trẻ nhất Việt Nam anh có bất ngờ không?
Tôi không khỏi bất ngờ và sung sướng khi biết được tin trên. Tôi chỉ biết tự nhủ mình phải thật cố gắng nhiều hơn nữa trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học để luôn xứng đáng với học hàm này.
Để thành công trên con đường làm toán nhiều người nổi tiếng đã chia sẻ đó là duyên phận. Với anh thế nào?
Tôi sinh ra trong gia đình có truyền thống làm nghiên cứu khoa học (bố là GS. Toán của trường ĐHSPHN), ngay từ nhỏ tôi đã yêu thích ngành toán.
Tuy nhiên tôi chỉ thực sự bắt tay vào nghiên cứu toán học cao cấp vào những năm cuối khi tôi học ở khoa Toán-Cơ-Tin học trường ĐHTH Hà Nội (nay là ĐHKHTN, ĐHQG Hà Nội). Sau đó tôi có may mắn sang Pháp làm luận án Tiến sĩ dưới sự đồng hướng dẫn của GS. Đỗ Đức Thái (ĐHSPHN) và GS. Pascal Thomas (ĐHTH Toulouse 3). Tôi nói đó là một cơ may vì vào thời điểm đó (năm 1997) việc xin học bổng đi nước ngoài trong cả 3 năm là không dễ.
Anh có thể bật mí chút về con đường nghiên cứu khoa học của mình?
Tôi bắt đầu làm luận án TS toán học tại trường Đại Học Toulouse 3 (cộng hòa Pháp). Vào tháng 6 năm 2000, tôi bảo vệ thành công luận án TS chuyên ngành giải tích phức về đề tài “Bao lồi đa thức địa phương của hợp thành các đồ thị hoàn toàn thực” tại Đại học Toulouse 3. Tháng 8/2001, tôi trở về Việt Nam và nhận công tác tại khoa Toán-Tin, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2003, tôi được mời làm thực tập sinh sau TS tại trường ĐH Sundsvall, Thụy Điển. Tại đây, tôi đã chuyển sang nghiên cứu lý thuyết đa thế vị phức.
Vào tháng 11/2006, bằng các công trình trong hướng nghiên cứu này, tôi đã bảo vệ luận án Habilitation Diriger des Recherches tại Đại Học Toulouse 3. Sau đó, tôi đã được bổ nhiệm làm PGS. Của trường ĐHSP Hà Nội vào cuối năm 2007. Từ tháng 9/2007 đến tháng 8/2009, tôi được mời đi làm cộng tác viên khoa học tại trường ĐHQG Seoul và ĐHQG Chonnam (Hàn Quốc). Tại các trung tâm này, tôi đã chuyển sang nghiên cứu lý thuyết toán tử và giải phương trình d ngang với đánh giá.
GS Nguyễn Quang Diệu cùng vợ và con.
Video đang HOT
Các sản phẩm nghiên cứu của anh hiện được đánh giá thế nào?
Bắt đầu từ công trình của Halmos và Brown vào năm 1965 về toán tử Toeplitz trên không gian Bergman các hàm chỉnh hình trên đĩa đơn vị, những vấn đề về toán tử Toeplitz và toán tử hợp thành giữa các không gian hàm chỉnh hình đã được nhiều nhà toán học trên thế giới đặc biệt là ở Nhật Bản, Hàn Quốc hay Mỹ nghiên cứu. Tuy nhiên lý thuyết toán tử giữa các không gian hàm còn rất mới mẻ đối với toán học trong nước. Trong thời gian làm thực tập sinh tại Hàn Quốc, tôi đã có cơ hội tiếp cận với hương nghiên cứu mới này và đã hoàn thoàn một số công trình chẳng hạn như về cấu trúc của toán tử Toeplitz trên miền tùy ý trong mặt phẳng hay là tính các giá trị riêng của toán tử hợp thành có trọng trên không gian Bloch suy rộng. Bên cạnh đó, tôi cũng tiếp tục phát triển các hướng nghiên cứu truyền thống của bộ môn như lý thuyết đa thế vị và giải tích phức nhiều biến. Tính sáng tạo trong những công trình của mình là ở chỗ tôi luôn cố gắng vận dụng những kiến thức cổ điển đã biết vào việc nghiên cứu, giải quyết những bài toán thời sự.
Các công trình khoa học này đã được dùng để hướng dẫn nhiều học viên thạc sĩ. Đồng thời một số bài toán mở trong những hướng nghiên cứu kể trên đã được tôi đề xuất cho 2 NCS của mình.
Các công trình nghiên cứu của tôi hiện nay đang ở mức tiếp cận mặt bằng chung của toán học hiện đại. Trong thời gian tới, cùng với các cộng sự trong bộ môn, tôi sẽ cố gắng giải quyết triệt để một số bài toán mở của lý thuyết toán tử và phương trình Monge-Ampere.
Nhờ vào các công trình nghiên cứu khoa học của mình mà tôi đã được mời đọc báo cáo tại một số hội thảo và được mời đi cộng tác tại một số trường đại học hay viện nghiên cứu chẳng hạn ĐH Fudan (Trung Quốc) 11/2009, ĐH Niigata (Nhật Bản) (6/2009 và 1/2011), ĐH Toulouse (CH Pháp) (5/2011), Viện Max Planck (CHLB Đức) (11/2011)”.
Là nhà khoa học trẻ, anh suy nghĩ thế nào về nền giáo dục Việt Nam hiện nay? Đặc biệt với ngành Toán học?
Chúng ta đều biết hiện nay giáo dục Việt Nam đang gặp phải nhiều bài toán nan giải. Riêng với Toán học tôi thấy gần đây chính phủ đã có những đầu tư đáng kể chẳng hạn như thành lập Viện Toán Học cao cấp, tài trợ cho quĩ nghiên cứu cơ bản quốc gia (NAFOSTED)… Những động thái này đã và đang khích lệ những bạn trẻ như tôi nghiên cứu khoa học
Anh có lời khuyên gì với giới trẻ hiện nay?
Biết cảm nhận được “sở trường” của bản thân là gì và đầu tư hết mình vào đó. Chắc chắn có ngày sẽ thành công.
Xin trân trọng cảm ơn anh!
Tân Giáo sư Nguyễn Quang Diệu sinh ngày 17/7/1974, hiện công tác tại Khoa Toán-Tin, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Anh đã xuất bản 35 bài báo khoa học. Trong số đó có 4 bài báo đăng ở các tạp chí quốc gia và 30 bài đăng ở các tạp chí quốc tế nằm trong danh mục SCI và SCIE. Những bài toán mà anh nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của giải tích phức nhiều biến và lý thuyết đa thế vị như: Bao lồi đa thức, toán tử Monge-Ampere, phương trình d ngang với đánh giá, toán tử giữa các không gian hàm. Đây là những hướng nghiên đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà toán học quốc tế. Dưới đây là 5 công trình tiêu biểu được anh viết trong những năm gần đây: Jensen measures and unbounded B-regular domains , Annales Inst. Fourier 2008; Toeplitz operators on bounded domain in C, Proceedings of American Math. Soc. 2011; d-bar equations with Donnely-Feferfemann estimates, Osaka Journal of Math., 2009; Local polynomial convexity of graphs, Michigan Math. Journal, 2009; Peron-Bremermann envelopes on bounded domains, International Journal of Math., 2007. Đây là các công trình được xuất bản tại các tạp chí có uy tín ở Pháp, Mỹ và Nhật Bản.
Hồng Hạnh (thực hiện)
Theo dân trí
Vĩnh biệt GS. VS Phạm Song: Bầu trời khoa học lại tắt một vì sao!
Sau GS. Hoàng Minh Thảo, TS. Bùi Danh Lưu đến lượt GS. VS Phạm Song ra đi. Những nhân vật là các nhà khoa học mà tôi thân thiết và kính trọng trong cuốn sách dự định của tôi lại mất thêm một người. Bầu trời khoa học nước nhà lại tắt một vì sao...
Ấn tượng về một nhà quản lý
Lần đầu tiên tôi gặp Giáo sư, Viện sỹ, Thầy thuốc Nhân dân Phạm Song vào khoảng đầu năm 1999. Khi đó, tôi mới từ Thái Bình lên công tác tại báo Nhà báo & Công luận. Còn ông cũng đã thôi làm Bộ trưởng Bộ Y tế, về phụ trách Chương trình nước sạch Quốc gia. Thật tình đến bây giờ, tôi không nhớ được bất cứ một nội dung nhỏ nào của bài phỏng vấn và tôi cũng không nhớ bài đó có được đăng không. Cái còn lại duy nhất của cuộc gặp gỡ là ấn tượng của người trả lời phỏng vấn. Một người hiền hậu, cẩn trọng, chu đáo và đặc biệt là sự nhiệt thành với công việc. Buổi đó, ông đã nói rất dài và rất say sưa về những bức xúc của hiện tại cũng như những ý tưởng đang ấp ủ. Vì vậy sau này, khi chuyển về báo Gia đình & Xã hội, ở cùng nhà, đi chung cầu thang, dù ông không còn nhớ một chút gì về mình nhưng gặp ông lần nào tôi cũng chào rất lễ độ. Ông mải mê công việc nên không ít lần tôi chào, ông giật mình ngỡ ngàng một lát rồi mới đáp lại và lại rảo bước. Sau này, khi đã được ông coi như bạn vong niên, tôi vẫn không quên cái ấn tượng về một nhà quản lý, một nhà khoa học am tường và say mê công việc.
Giáo sư, Viện sỹ Phạm Song.
Nhân cách một trí thức
Có lẽ ông chỉ biết đến tôi sau lần tôi phỏng vấn ông về giá thuốc. Khi đó, Cty phân phối dược phẩm Juli Phác ma độc quyền thao túng thị trường. Giá thuốc, đặc biệt là thuốc biệt dược tăng giá một cách chóng mặt. Dư luận tập trung vào Bộ Y tế. Các đại biểu đang họp tại nghị trường Quốc hội rất bức xúc. Mọi nguyên nhân đều đổ vào lãnh đạo Bộ Y tế của bà Trần Thị Trung Chiến - Bộ trưởng. Tôi đến gặp ông để tìm hiểu tình hình. Và điều bất ngờ với tôi, ông đã nhận một phần trách nhiệm của mình, mặc dù ông đã không còn giữ trọng trách Bộ trưởng nhiều năm. "Đó là trách nhiệm của nhiều đời Bộ trưởng, trong đó có tôi". Lời "nhận tội" đó không chỉ giúp dư luận có cái nhìn đúng về trách nhiệm, tìm ra nguyên nhân sâu xa của sự việc mà hơn cả, đó là nhân cách của một tri thức. Bài báo ra đời cũng có người bảo: "Ông ấy nghỉ rồi, nhận có chết ai?". Điều đó có thể đúng nhưng thực tế, không ít người khi đã không còn quyền chức vẫn chưa một lần dám nhận trách nhiệm về mình. Thậm chí, không loại trừ việc tranh công hay đổ tội. Và cũng từ đó, tôi hay sang hầu chuyện ông. Ông cũng tâm sự với tôi về cuộc đời, về sự trăn trở, ưu tư của một thầy thuốc, một tri thức cách mạng.
Những ý tưởng từ trong rừng
Phạm Song thường nói ông và những người đồng lứa với ông như GS. Nguyễn Đình Tứ, GS. Võ Quý, GS. Hà Học Trạc, GS. Lê Xuân Trung, GS. Nguyễn Tài Thu... là sản phẩm của cách mạng. Ông sinh năm 1931 tại xã Sơn Long, Hương Sơn, Hà Tĩnh trong một gia đình công chức. Năm 1948, như nhiều sinh viên yêu nước thời đó, Phạm Song tham gia hoạt động trong phong trào sinh viên ở trường Huỳnh Thúc Kháng. Năm 1950, mới 19 tuổi, Phạm Song được kết nạp Đảng và năm sau, ông được cử lên Chiến khu Việt Bắc (Chiêm Hoá, Tuyên Quang) để theo học nghề y.
Tháng 8/1953, đang học dở đại học, Phạm Song tình nguyện về làm y sỹ tại công trường mở đường Ao Lâu - Điện Biên. Một thời gian ngắn sau, ông được cử làm bệnh xá trưởng của công trường có tới gần 3000 người này. Đây cũng là thời gian vô cùng cực khổ và ác liệt. Suốt ngày đêm, máy bay địch quần thảo, ném bom napan và bắn đạn pháo. Những thương vong, mất mát phần nhiều không từ phía bom đạn quân thù mà lại ở ốm đau, bệnh tật, nhất là sốt rét. Đã không ít lần, Phạm Song phải chứng kiến sự ra đi đầy thương cảm của những người đồng chí vì căn bệnh sốt rét rừng. Nỗi ám ảnh này lớn đến mức sau khi trở thành giáo sư nổi tiếng, một nhà quản lý đầu ngành thì việc ông đeo đuổi suốt cuộc đời là tìm ra loại thuốc chữa sốt rét. Công trình chiết xuất Artesiminin từ cây thanh hao hoa vàng (loại cây mọc phổ biến ở vùng núi phía Bắc) làm thuốc điều trị sốt rét do ông chủ trì đã được Giải thưởng Hồ Chí Minh giai đoạn 1995 - 2000 đã được ấp ủ, thai nghén từ những năm này.
Sau chiến dịch Điên Biên Phủ, tháng 9/1954, từ Tuyên Quang, Phạm Song được điều về tiếp quản Thủ đô Hà Nội.
Giáo sư, Viện sỹ Phạm Song.
Không ham danh nhưng cần có chức để làm việc
Phạm Song tiêu biểu cho một thế hệ cán bộ trưởng thành từ cơ sở. Vốn là bệnh xá trưởng công trường, ông lên trưởng khoa Nhiễm trùng, phó Giám đốc rồi Giám đốc bệnh viện Hữu Nghị, Thứ trưởng rồi Bộ trưởng Bộ Y tế... Từ một sinh viên đào tạo trong rừng, sau nhiều năm miệt mài học tập, cống hiến, ông đã trở thành chuyên gia khoa học và nhà quản lý đầu ngành, được đồng nghiệp trong nước và bạn bè thế giới quý trọng. Tuy nhiên với ông, hình như công danh, chức tước chỉ là "ngoại vật hi thân" (cái ở ngoài bản thân) như cổ nhân đã nói. Danh hiệu làm ông hạnh phúc nhất là được phong Thầy thuốc Nhân dân. Được là người của nhân dân đối với ông là phần thưởng vô giá, hơn mọi danh vị, chức tước.
Có thể nói, Phạm Song là một khối "mâu thuẫn". Ông không phải là người ham hố công danh nhưng lại ham mê công việc. Thôi giữ chức Bộ trưởng Y tế, ông về Ban chỉ đạo chương trình Nước sạch quốc gia rồi chuyển sang làm Chủ tịch Hội Dân số - Kế hoạch hoá gia đình. Khi được bầu làm Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam, ông rất vui vì lại được làm việc, được cống hiến và cả niềm vui vì thấy mình vẫn được anh em, bè bạn, đồng nghiệp yêu mến và kính trọng.
Không ham công danh nhưng lại cần chức tước chỉ vì ông hiểu rất sâu sắc rằng trong cái cơ chế của ta, không có quyền lực thì không thực thi được những ý tưởng của mình. Công trình chiết xuất Artemisimin ấp ủ từ những năm ở Việt Bắc nhưng phải đến khi là Bộ trưởng, ông mới thực hiện được là một ví dụ.
"Sòng phẳng mà nói, nếu tôi không là Bộ trưởng thì không thể có được công trình này. Làm Thứ trưởng cũng khó chứ đừng nói là làm anh cán bộ khoa học thuần túy". Ông nói.
Có lần ông còn chia sẻ với tôi: "Không có quyền lực thì không thực thi được ý tưởng nhưng khi có quyền chức thì lại bận nhiều việc, họp hành nên cái tâm nghề nghiệp nó vơi đi, ít đi, mất đi... Rồi không biết từ lúc nào, cái tính gia trưởng, tham lam và độc đoán nó thâm nhiễm vào cái anh có quyền lực. Thói xấu mà người làm lãnh đạo cần tránh là tham lam và gia trưởng. Vừa muốn mình được hưởng nhiều nhất lại muốn lời nói của mình có giá trị ngàn vàng, phải khắc vào bảng vàng, bia đá. Thế là người tài, người có năng lực, người có thực tâm dần bị đẩy ra xa người có quyền lực. Buồn thế...".
Một số người khi có quyền chức thì hách dịch, trịch thượng đến khi "ngồi xuống đất" vẫn không bỏ được cái thói quen này. Tôi không biết khi làm Bộ trưởng, tính khí ông thế nào nhưng từ dạo quen biết ông, tôi luôn thấy ông là người ôn hoà, lịch thiệp. Ông vừa có sự thâm trầm, sâu sắc của người xứ Bắc, vừa có sự mềm mỏng, dịu nhẹ Cố đô lại vừa cần cù, ham học của người xứ Nghệ. Ông thông thạo 2 ngoại ngữ và vẫn thường tự tay soạn thảo giấy tờ, văn bản trên máy tính.
Niềm trăn trở của một trí thức
Trong cuộc đời mình, GS. Phạm Song luôn trăn trở về đội ngũ trí thức. Ông cho rằng hiện nay đang có nhiều cách nhận dạng khác nhau về trí thức và điều đó dẫn đến cách hiểu không chính xác về đội ngũ này. Vì vậy cần thống nhất trong cách đánh giá và muốn vậy, phải định nghĩa được trí thức là những ai? Họ phải có những điều kiện nào. Nghĩa là phải dựa trên những tiêu chí khoa học rất cụ thể chứ không thể mơ hồ, ngộ nhận. "Tôi thích định nghĩa của Nhà Nobel kinh tế F.A Hayeck. Theo ông ta, ai sống bằng nghề gắn với thông tin, trí thức, khoa học đều là trí thức. Hay nói cách khác, đó là những người có 3 uy quyền: Định hướng dư luận xã hội. Thúc đẩy khoa học tiến bộ và sáng tạo. Cách tân - khai sáng ra một tư duy - tư tưởng mới", Phạm Song nói.
Tuy là người có bằng cấp cao nhưng chưa bao giờ ông lấy tiêu chí bằng cấp để đánh giá, đề bạt cán bộ. "Với tôi, một người nông dân có sáng kiến còn giá trị hơn nhiều người có bằng cấp cao mà chỉ sáng cắp ô đi, tối cắp ô về không có một sáng tạo nào có ích".
Ông cũng rất coi trọng cốt cách của người trí thức. Khi trả lời câu hỏi về các phẩm chất của trí thức Việt Nam, ông nói thẳng đã là trí thức thì không được hèn. Không có khí tiết, không là trí thức. Không dám nói lên sự thật cũng không là trí thức. Không trung thực cũng không là trí thức. Nói tóm lại, trí thức phải vừa có trí dục vừa phải có đức dục. "Tôi không nghĩ hiện tượng trí thức dối trá và khiếp nhược là phổ biến. Những trí thức như GS. Hoàng Tụy, GS. Hồ Ngọc Đại, Nhà văn Nguyên Ngọc chẳng hạn. Họ dám nói sự thật, dám lớn tiếng phản đối những sai trái một cách quyết liệt. Còn nhiều nhà khoa học khác, họ không nói không phải vì hèn mà vì chưa có một diễn đàn thuận lợi cho trí thức lên tiếng".
Nếu nói về nỗi buồn trong cuộc đời mình, có lẽ điều ông day dứt nhất là công trình khoa học chiết xuất Artemisimin từ cây thanh hao hoa vàng. Điều đáng buồn là công trình mang lại lợi ích rất lớn được thế giới đánh giá cao nhưng khi ông không còn làm Bộ trưởng thì công trình cũng dần mai một.
Những công trình khoa học của GS. VS Phạm Song
- Chiết xuất Artesiminin từ cây Thanh hao hoa vàng làm thuốc điều trị sốt rét. - Dịch tễ học viêm gan virus (nghiệm thu xuất sắc quốc gia) công trình khoa học cấp Nhà nước. - Chủ nhiệm Bách khoa thư bệnh học 4 tập (cùng với sự cộng tác của 110 GS, PGS, TS).
Và những phần thưởng chính:
- Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất. - Huy chương do Hiệp hội Hàn lâm y tế công cộng Thái Bình Dương tặng. - Huy chương Chống thuốc lá do Y tế thế giới tặng. - Giải thưởng khoa học Hồ Chí Minh 1995 - 2000 (cùng với một số đơn vị tập thể do ông chủ trì). - Năm 2000, ông được phong là Viện sĩ Viện hàn lâm học LB Nga. Năm 2006, ông được Viện Tiểu sử Hoa Kỳ tặng danh hiệu "Nhà khoa học tiêu biểu".
Bùi Hoàng Tám
Theo dân trí
Vì sao GS Hoàng Tụy được thế giới vinh danh GS Hoàng Tụy cho tới năm 1995 đã công bố gần 100 công trình khoa học về lĩnh vực tối ưu hóa. Những công trình đó đã được nhiều nhà khoa học và công nghệ ở Việt Nam và trên thế giới coi là nền tảng để nghiên cứu sau này. "Cha đẻ" của tối ưu hóa toàn cục Các công trình thuộc...