Giáo sư Hàn Quốc “mách” SV Việt cách chọn công việc yêu thích
Làm nghề không yêu nhưng không dám buông bỏ, ra trường muốn có mức lương thật cao… – trong bất kỳ trường hợp nào, Giáo sư Rando Kim (ĐH Seoul, Hàn Quốc) cho hay, mỗi người phải tự tạo ra giá trị cơ bản của bản thân của mình để tìm thấy hạnh phúc trong công việc.
Hàng trăm bạn trẻ là sinh viên (SV), người đã đi làm tại TPHCM bày tỏ tâm tư lương thấp, chọn nghề không yêu trong buổi giao lưu ra mắt cuốn sách “Chọn nghề bạn yêu” với Giáo sư Rando Kim, ĐH Seoul diễn ra mới đây tại ĐH KHXH&NV, TPHCM.
Giáo sư Rando Kim (ĐH Seoul , Hàn Quốc) trao đổi với sinh viên Việt Nam về nhiều góc nhìn về nghề nghiệp.
Buông bỏ hay giữ?
Hàng chục câu hỏi của SV người đi làm cùng có chung tâm trạng đang theo học hoặc đang làm công việc mình không yêu thích. Các bạn trẻ dằn vặt trước hai lối đi, một bên công việc đang mang lại thu nhập và một bên là sự yêu thích.
Làm một công việc qua ngày, gác lý tưởng, sở thích sang một bên hay bỏ hết tất cả mọi thứ để “chạy theo tiếng gọi của đam mê” là trăn trở của nhiều bạn trẻ. Có lên lãng phí thời gian vào những công việc chỉ để kiếm tiền? Làm sao để cân bằng đam mê với sự nghiệp?
Bạn Nguyễn Đức Thanh, cựu SV Trường ĐH Kinh tế TPHCM cho biết, mình đang làm về lĩnh vực kinh doanh, thu nhập ổn định. Vậy nhưng chưa bao giờ cậu thấy “yên lòng” vì đam mê của cậu lại liên quan đến âm nhạc. Cậu mang nỗi đau lấy người mình không yêu nhưng lại không đủ để buông bỏ.
Và không chỉ Thanh, trong hội trường, hàng loạt cánh tay của những bạn trẻ đã đi làm giơ lên chia sẻ cùng hoàn cảnh này.
Video đang HOT
Còn với SV chuẩn bị ra trường, bắt đầu bước vào thị trường nhân lực, nhiều bạn nêu thắc mắc làm sao để có được mức lương cao nhất khi đi làm. Mối quan tâm này nhắc đến “hiện tượng” từng được đề cập là SV ra trường “hét” lương khởi điểm 2.000 USD.
Hạn chế cách nhìn về nghề nghiệp
Chia sẻ với SV Việt Nam, GS Rando Kim (ĐH Seoul) cho hay, trong nghề nghiệp, quan trọng nhất chính là chọn nghề bạn yêu. Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta gặp sự “lệch pha” trong nghề rất nhiều, nghĩa là đã học, làm công việc không thuộc về đam mê của mình.
Không có câu trả lời nào chung cho từng trường hợp, mỗi người sẽ có những “đáp án” không giống ai. Tuy nhiên, theo GS Kim, mỗi người hoàn toàn có thể đưa ra những chiến lược tìm kiếm việc làm phù hợp với bản thân, để có thể cân đối hài hòa lĩnh vực bạn học và chọn với đam mê, sở thích.
“Hạn chế hiện nay là mọi người còn nhìn nhận về nghề nghiệp hạn hẹp, thiếu trầm trọng thông tin về nghiệp nghiệp”, ông Kim nói.
GS Rando Kim nêu trường hợp ở Hàn Quốc, ông đã thực hiện cuộc điều tra đơn giản với SV của mình với câu hỏi “Ở Hàn Quốc” có bao nhiêu nghề nghiệp?”. Khi thu nhận kết quả, ông bất ngờ nhưng đã giúp ông hiểu tại sao ước mơ của SV nước mình lại chưa thể thoát ra khỏi phạm vi công chức nhà nước.
SV chỉ biết đến khoảng hơn 100 nghề nghiệp, rất ít bạn chỉ ra được 200 nghề, trong khi thực tế thì có đến 20.000 nghề nghiệp khác nhau. SV không nhận thức được đến 1% số nghề nghiệp thực tế, họ bị định kiến nghề nghiệp từ những người đi trước nên không nhận ra sự tồn tại của 99% nghề còn lại.
Trước sự khắc nghiệt của thị trường lao động, của cuộc sống, GS Rando Kim cho rằng có thể hiểu được mong muốn, đòi hỏi lương cao của SV khi ra trường. Có điều SV đang ngộ nhận rằng, người khác phải trả lương cao cho mình mà quên mất vấn đề cốt lõi nhất là chính mình phải tạo ra điều đó. Chuyên gia tư vấn cho nhiều tập đoàn nổi tiếng trên thế giới này nhấn mạnh: “Muốn có lương cao, buộc bạn phải tạo ra giá trị của bản thân, thương hiệu của bản thân ngay khi ngồi trên ghế nhà trường”.
Ông cũng nhắn nhủ đến SV và tất cả mọi người tinh thần đừng chỉ làm việc vì tiền mà hãy làm việc vì mưu cầu hạnh phúc. Đừng để làm việc cho rã rời đến khi trở về nhà mới là “sống” mà công việc phải là một phần của cuộc sống của mỗi người. Bạn cần tìm thấy hạnh phúc, niềm vui trong công việc thì mới có thể thành công.
Hoài Nam
Theo Dân trí
"Nhiều cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội vẫn xa lạ với công bố quốc tế"
GS.TS Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia Hà Nội đã bày tỏ thẳng thắn như vậy, khi chỉ ra thực trạng của vấn đề công bố khoa học quốc tế ở lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) của Việt Nam hiện nay.
Phát biểu tại hội thảo Công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV tại Việt Nam do ĐH Quốc gia TPHCM và Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 16/1, GS.TS Phạm Quang Minh cho rằng Việt Nam có sự chuyển dịch trong công bố quốc tế trong lĩnh vực này tuy nhiên vẫn còn khiêm tốn.
Theo ông Minh, nếu so với các nước ASEAN, số lượng công bố ISI ở lĩnh vựa khoa học xã hội của Việt Nam xếp thứ 4, đứng sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.
"Nếu như năm 2013 chúng ta chỉ có 190 bài báo công bố thì đến năm 2018 đã lên đến 487 bài. Còn khi so với xếp hạng của thế giới về số lượng công bố ISI trong 5 năm gần đây thì chúng ta cũng nâng hạng từ vị trí 66 (năm 2013) lên vị trí 49 (năm 2018). Điều này cho thấy các nhà khoa học xã hội Việt Nam không kém và đã nổ lực rất cao trong nghiên cứu", ông chia sẻ.
Các đại biểu, nhà khoa học tham dự hội thảo đã góp ý để nâng cao việc nghiên cứu công bố quốc tế trong lĩnh vực khoa học xã hội
Còn thống kê của Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội cho thấy từ 7 công bố quốc tế năm 2010 đã tăng lên 79 bài năm 2018. Tuy nhiên, thực tế là bài viết vẫn chủ yếu tập trung ở một số tác giả nhất định, những người đã từng được đào tạo hoặc tu nghiệp ở nước ngoài, thường xuyên có công bố quốc tế.
Năm học 2017 - 2018, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội có số công bố quốc tế nhiều nhất nhưng cũng chỉ mới có 54 cán bộ tham gia viết bài, trung bình 1,5 bài/tác giả. So với tiềm lực của trường với 380 giảng viên, trong đó có 112 giáo sư và phó giáo sư, 133 tiến sĩ và 147 thạc sĩ thì số người có công bố quốc tế vẫn rất khiêm tốn.
Trong bài tham luận, GS.TS Phạm Quang Minh nhìn nhận một thực trạng đáng buồn là còn khá nhiều cán bộ nghiên cứu khoa học xã hội vẫn xa lạ với công bố quốc tế. Và theo ông Minh có 5 nguyên nhân dẫn đến thực trạng này. Trong đó, "đầu tiên là do quy trình đào tạo của chúng ta đã quá lỗi thời, lạc hậu với tình trạng "thầy đọc trò chép" hay chỉ vài cuốn sách giáo khoa mà không gắn liền thực tế khiến tư duy phản biện của sinh viên Việt Nam rất kém. Chính vì chúng ta không có những cử nhân tốt, nghiên cứu sinh tốt thì làm sao có các nhà khoa học tốt được", ông Minh nói.
Ngoài ra, đó là các nguyên nhân gồm chưa nhận thức một cách nghiêm túc về tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc công bố; rào cản về ngoại ngữ; nhiều tạp chí khoa học trong nước còn yếu kém nên dễ dãi trong khâu tuyển chọn bài; sự hợp tác quốc tế vẫn còn nặng tính hình thức, chưa quan tâm hiệu quả thiết thực đầu ra của sản phẩm khoa học.
Còn GS.TS Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho hay, trong những năm qua, lĩnh vực Khoa học xã hội góp phần tích cực cho công cuộc đổi mới đất nước nhưng so với lĩnh vực khoa học tự nhiên hay công nghệ thì lĩnh vực này hội nhập quốc tế chậm hơn.
"Điều này đòi hỏi yêu cầu công bố quốc tế, hội nhập quốc tế nói chung của lĩnh vực KHXH&NV hết sức cấp thiết. Muốn hội nhập thành công, chính công bố quốc tế giữ vị trí quan trọng. Vì công bố quốc tế vừa đảm bảo việc cung cấp tri thức, giới thiệu đất nước cho thế giới, cho khu vực, nó tạo cơ sở cho thế giới hiểu biết Việt Nam nhiều hơn, tạo cơ sở cho tăng cường hợp tác của Việt Nam trên thế giới nhưng đồng thời nó còn khẳng định thể hiện nền khoa học công nghệ của đất nước", ông Thuấn nêu ý kiến.
Các đại biểu cũng nhìn nhận việc số lượng các công bố quốc tế trong lĩnh vực KHXH&NV ít ỏi là một thiệt thòi mang tầm quốc gia, vì nó ảnh hưởng đến vị thế và sức ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa, nó dẫn đến việc hạn chế đóng góp của ngành này trong việc phổ biến những giá trị Việt Nam, văn hóa Việt Nam, vai trò của Việt Nam về đối nội, đối ngoại và khẳng định chủ quyền lãnh thổ.
Theo PGS.TS Phạm Văn Phúc, Phó Tổng Biên tập Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, ĐHQG TPHCM dẫn lại một kết quả tìm kiếm số lượng công bố trên thế giới về từ khóa "Biển Đông", dựa trên cơ sở dữ liệu toàn cầu lớn nhất, có phản biện là Scopus. Kết quả rất đáng suy ngẫm: "Chúng ta thấy 10 tạp chí công bố nhiều nhất về biển Đông, hầu hết 90% các tạp chí này được xuất bản từ Trung Quốc. Tất cả các tạp chí này đều đạt chuẩn Scopus. Vậy các nước công bố nhiều nhất về biển Đông, đương nhiên là các học giả Trung Quốc. Cụ thể, công bố từ Trung Quốc có 8.647 bài về biển Đông; từ Mỹ thì có 2.139 bài; Đài Loan có 1.070 bài. Trong top 10 quốc gia công bố nhiều nhất về biển Đông thì không có Việt Nam chúng ta", ông Phúc nói.
Từ kết quả nghiên cứu trên để thấy rằng, việc xuất bản tạp chí về lĩnh vực Khoa học xã hội và nhân văn tại Việt Nam đạt chuẩn quốc tế, là một nhu cầu cấp thiết và hướng đi chiến lược trong hội nhập quốc tế toàn diện.
Lê Phương
Theo Dân trí
Hoa hậu H'Hen Niê: 'Giáo dục cần song hành với hạnh phúc và thực lực' Khi trẻ em hiện nay đang bị "quay cuồng" trong những ước mơ và kỳ vọng của bố mẹ và nhà trường, Hoa hậu H'Hen Niê cho rằng cần ưu tiên cho trẻ được hạnh phúc thay vì áp đặt, hạnh phúc cần đi suốt trong hành trình lớn lên của mỗi đứa trẻ... Ước mơ trở thành... cô bán ve chai Tại...