Giáo dục trong nước làm khổ sinh viên khi đi du học
“Đừng để sinh viên phải đọc những giáo trình mỏng lét và coi đó là kiến thức chuẩn mực. Một quyển sách viết ra bây giờ không phải để dùng trong phạm vi một trường, một quốc gia” – PGS.TS. Lưu Tiến Hiệp khẳng định.
Cuối tuần qua, tại ĐH Quốc gia TP.HCM đã diễn ra Hội thảo Giáo dục Đại học Việt Nam hội nhập quốc tế. Tham dự hội thảo có nhiều bậc học giả người Việt ở trong và ngoài nước, như PGS.TS Phan Thanh Bình, Giám đốc ĐH Quốc gia TP.HCM, TS Võ Văn Sen – hiệu trưởng ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, GS Nguyễn Văn Tuấn – Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia, PGS.TS Lưu Tuấn Hiệp – đại diện UPC Sydney – Australia tại Việt Nam.
Bên cạnh ý kiến của các chuyên gia về giáo dục, PGS.TS Lưu Tuấn Hiệp đã có những ý kiến thẳng thắn về bất cập của đào tạo trong nước dẫn đến việc sinh viên gặp trở ngại khi hòa nhập vào môi trường giáo dục thế giới.
Vất vả để được công nhận
Trình độ Toán, Lý, Hóa của học sinh tốt nghiệp phổ thông ở Việt Nam là không hề dở, nhưng khi qua Mỹ, Úc học thường phải tốn một năm học lại. Nguyên nhân là nhiều nước không công nhận bằng tú tài của Việt Nam. Một số trường hợp được học thẳng là vì sinh viên xuất sắc hoặc phải tự mình “đấu tranh” với nhà trường. Đề xuất của hội thảo là Bộ nên có sự giải thích và thương lượng để các trường đại học nước ngoài hiểu biết hơn về giáo dục Việt Nam, tránh gây “oan uổn” và tốn thời gian, công sức của sinh viên.
Hội thảo Giáo dục Việt Nam hội nhập Quốc tế bàn về cách đưa giáo dục đại học ra “biển lớn”, trong đó làm thế nào để sinh viên Việt Nam có thể hội nhập khi đi du học là một yếu tố quan trọng.
Khi chuyển tiếp học đại học, nhiều trường ở nước ngoài có chính sách công nhận các môn sinh viên đã học tại trường đại học Việt Nam để miễn học lại, nhưng quá trình chuyển điểm này dồn hết lên vai sinh viên. Thay vì cung cấp đề cương môn học, bảng điểm đúng chuẩn bằng tiếng Anh, trường đã để sinh viên tự lo tất cả.
“Sinh viên phải tự dịch sang tiếng Anh, xin xác nhận bảng điểm dịch trường cũng thoái thác nhiệm vụ này. Trong khi ở nơi khác, sinh viên có thể dùng website, đề cương môn học để xin miễn môn học một cách dễ dàng”, PSG.TS Hiệp cho biết.
Rào cản về ngôn ngữ và thang điểm
Ngoài ra, Việt Nam cũng chưa chuẩn hóa việc dịch các thuật ngữ nước ngoài sang tiếng Việt, làm khó cho sinh viên trong việc chọn trường và xin học. PGS.TS Hiệp lấy ví dụ từ college, ở Mỹ từ này chỉ trường đại học thành viên, nhưng qua Việt Nam bị chuyển thành… cao đẳng, hạ thấp từ này xuống và gây nhẫm lẫn cho phụ huynh, sinh viên. Hay như cách dịch bằng cấp, trường là nơi cấp bằng được dịch sang tiếng Anh, nhưng cách dịch của trường không phải để các đối tác nước ngoài hiểu mà lại dùng tiếng Anh theo phong cách người Việt.
Video đang HOT
PST.TS Lưu Tiến Hiệp: “Học sinh Việt Nam không hề dở Toán, Lý, Hóa, nhưng phải học lại một năm dự bị đại học. Bộ có thể làm gì trước điều này?”.
Chưa hết, những từ như chuyên tu, tại chức, chính quy được dịch ra một cách khiên cưỡng, bởi ở nước ngoài người ta hầu như không phân biệt các khái niệm này.
“Đây là việc làm tai hại vì rất khó thiết lập sự tương đương của bằng cấp Việt Nam với một trường khác, ảnh hưởng bất lợi cho sinh viên và cả trường”.
Cách tính điểm GPA theo thang 4 cũng làm sinh viên Việt Nam thua thiệt so với sinh viên các nước khác, đặc biệt trong việc xin học bổng. Khi quy đổi từ thang điểm 10 sang thang 4, các trường ở Việt Nam thường chọn cận dưới, dẫn đến GPA thường bị thấp hơn so với các nước bạn.
Nên dịch giáo trình quốc tế để học
Một cản trở khác của sinh viên Việt Nam ra nước ngoài học tập là giáo trình. Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS Lưu Tiến Hiệp đề cập đến “sở thích” cổ vũ cho việc tự viết giáo trình ở bậc đại học Việt Nam. “Mỗi lần tôi dự các hội nghị liên quan đến giáo dục, lãnh đạo khi đọc diễn văn luôn có thói quen nhắc nhở giảng viên viết giáo trình như một điệp khúc. Điều này nên chấm dứt. Ngoài ra cũng không nên đưa chỉ tiêu giảng viên viết giáo trình trong đánh giá, trong thi đua”, ông Hiệp phát biểu.
Theo PGS.TS Lưu Thế Hiệp, sách đại học hội nhập quốc tế sâu sắc: “Một quyển sách viết ra bây giờ không phải để dùng trong phạm vi một trường, một quốc gia. Nền giáo dục của Úc không tồi, nhưng một giáo sư Úc muốn viết sách, nhà xuất bản phải nghĩ ngay là sách này có được các trường trên thế giới sử dụng không”. Trừ một số rất nhỏ, ông Hiệp cho rằng khả năng của giảng viên Việt Nam trong giai đoạn này chưa thể viết sách giáo khoa đại học được: “Đừng để sinh viên phải đọc những giáo trình mỏng lét, những bài giảng bằng powerpoint và coi đó là kiến thức chuẩn mực”.
Vì thế, trừ một số lĩnh vực cho khoa học xã hội, các trường đại học Việt Nam nên sử dụng các giáo trình đạt chuẩn quốc tế để giảng dạy. Việc sử dụng các giáo trình quốc tế sẽ giúp sinh viên Việt Nam hội nhập tiếp thu với chuẩn giáo dục quốc tế, dễ dàng hòa nhập khi đi du học – đồng thời cũng nâng chuẩn của các trường đại học Việt Nam. “Khi tiếng Anh của sinh viên còn yếu thì biện pháp dịch cần được khuyến khích”, theo PGS.TS Hiệp.
PHƯƠNG THẢO
Theo Infonet
Cần một "Tổng công trình sư" cho "bài toán" SGK
Việc biên soạn sách giáo khoa cần làm tổng thể và liền mạch. Nên có "Tổng công trình sư" cho cả hệ thống phổ thông để ghép nối các "công trình sư" biên soạn sách của từng năm học. GS Bành Tiến Long đưa ra hướng giải quyết bất cập trong việc biên soạn SGK.
Vấn đề SGK từ lâu đã được dư luận đề cập nhiều khi cho rằng chương trình hiện tại đang quá nặng, thiên về lý thuyết và thậm chí thiếu khoa học, không thực tế, còn nhiều bất cập. GS có thể nói rõ hơn quan điểm của GS về thực trạng này và giải pháp khắc phục?
Về sách giáo khoa của phổ thông, tôi thấy có nhiều ý kiến đề cập đến chương trình nặng, quá tải, nặng lý thuyết, thiếu thực hành; tóm lại còn nhiều bất cập. Điều này đáng lẽ ra phải làm rõ, minh chứng đầy đủ. Các tác giả viết sách và các nhà phản biện cùng với những nhà quản lý phải bố trí thời gian ngồi lại với nhau để xem xét một cách khoa học, thấu đáo và trách nhiệm. Phải làm rất công phu. Phải phản biện thẳng thắn, khách quan cũng như chủ động tiếp thu sự góp ý.
Từ đó thống nhất cách giải quyết một cách căn cơ,triệt để, hoặc là để chỉnh sửa hoặc viết lại hoàn toàn. Tranh luận mà không xử lý và giải quyết thống nhất thì thêm rối. Tôi còn nhớ có lần, lãnh đạo Bộ đã cùng Nhà xuất bản và các Vụ quản lý bậc học, đã mất nhiều thời gian và cập rập để làm đính chính cho kịp năm học. Tôi cũng không có điều kiện để nghiên cứu, và cũng không có khả năng tìm hiểu hết sách giáo khoa của các lớp học ở bậc phổ thông, nhưng những gì tôi biết thì chương trình và nhiều bài học là nặng nề và quá tải và không phù hợp đối với lứa tuổi học sinh. Tôi cho rằng những bài đó chỉ hợp với học sinh năng khiếu.
Chương trình SKG phổ thông hiện tại đang còn nhiều bất cập
Chương trình và sách giáo khoa là để giáo dục đại trà, vì vậy phải vừa sức, phải hết sức cơ bản, nhẹ nhàng, không mang tính đánh đố, tranh cãi, cần tăng bài tập, thực hành, trao đổi, thảo luận, chủ yếu vừa cung cấp kiến thức, vừa giáo dục nhân cách và tăng vốn sống tự nhiên cho các em. Đưa tất cả những nội dung, bài khó vào sách giáo khoa tham khảo. Viết sách là hết sức công phu và mất nhiều thời gian cho dù đó là sách phổ thông hay đại học. Viết cho lớp càng thấp thì càng khó viết. Cần lược bỏ những môn học, những kiến thức thừa, không thực tiễn, không cần thiết.
Về giải pháp khắc phục, tất cả phụ thuộc vào Đề án đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Việt Nam. Sau khi có Đề án, cần thành lập Ban soạn thảo chương trình và viết sách giáo khoa. Nên có "Tổng công trình sư", "nhạc trưởng" về việc này cho cả hệ thống phổ thông để ghép nối các "Công trình sư" biên soạn sách của từng năm học. Cần làm tổng thể và "liền mạch". Đội ngũ phản biện cần độc lập. Không nên làm vội vàng. Đặc biệt là đội ngũ Ban soạn thảo và phản biện phải chịu trách nhiệm về kết quả và chất lượng trước Nhà nước. Cần có đủ kinh phí để họ làm việc. Việc tuyển chọn cán bộ chủ trì các công việc này có vai trò quyết định đến sự thành công của Đề án.
Nên rút bớt thời gian học phổ thông
Không ít chuyên gia giáo dục đề xuất nên rút bớt thời gian học phổ thông, từ 12 năm xuống còn 11 năm hay thậm chí 10 năm. GS nhìn nhận vấn đề này như thế nào và theo ông, tiêu chí cũng như mục đích chính khi xác định thời gian học phổ thông là gì?
Đây là một vấn đề rất hệ trọng, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của giáo dục phổ thông, có hệ lụy tới giáo dục đại học, vì vậy cầnphải phân tích, xem xét, cân nhắc kỹ trước khi quyết định
Muốn trả lời câu hỏi bậc GDPT 12 năm hay rút xuống còn 11 năm hay 10 năm thì phải nghiên cứu, xem xét yêu cầu thiết lập hệ thống giáo dục quốc dân là gì? Nguyên tắc đề xuất cơ cấu khung hệ thống giáo dục quốc dân như thế nào? Từ đó xây dựng mục tiêu chính và tiêu chí, điều kiện thực hiện khi xác định thời gian học phổ thông.
Giáo dục phổ thông là giai đoạn đầu chuẩn bị cho sự phát triển nguồn nhân lực toàn diện của đất nước: Cả về thể lực, trí tuệ và nghị lực, cả năng lực và đạo đức; trang bị cho người học những kiến thức văn hóa phổ thông cơ bản toàn diện, đủ để phân luồng vào các lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau và chuẩn bị cho việc đào tạo nguồn nhân lực đồng bộ về cơ cấu ngành nghề và trình độ phục vụ đất nước.
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là thực hiện nâng cao dân trí và phát triển phẩm chất, nhân cách công dân; giáo dục thế hệ trẻ về cả kiến thức chuyên môn và định hướng nghề nghiệp để trở thànhcông dân có đủ kiến thức, kỹ năng, có khả năng tự học, năng động, sáng tạo, tự tin và trách nhiệm, có đủ khả năng làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, là công dân tốt của Việt Nam, dễ dàng hội nhập quốc tế. Giáo dục phổ thông là nền tảng của cả hệ thống giáo dục quốc dân và là "pha đầu" của quá trình học tập suốt đời. Khi kết thúc giáo dục phổ thông học sinh có đủ năng lực, kiến thức chuyên môn và phẩm chất để chuyển tiếp học trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học hoặc học nghề hoặc có thể làm việc.
Về các tiêu chí để xác định số năm học phổ thông thì chúng ta cũng phải tham khảo phân loại giáo dục theo chuẩn quốc tế UNESCO và lưu ý rằng, trước đây, ta quyết định chọn hệ 12 năm cũng như đa số các nước trên thế giới là dựa vào cơ sở tâm sinh lý lứa tuổi 18. Tuy nhiên, sau mấy chục năm, ngày nay do xã hội thông tin và do sự phát triển của đời sống vật chất mà tâm sinh lý lứa tuổi đã phát triển sớm hơn trước một vài năm.
Hiện nay công nghệ thông tin phát triển rất mạnh mẽ, phương tiện dạy và học đã tiên tiến hơn, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, dân số già hóa nhanh, thanh niên Việt Nam hiện trưởng thành sớm hơn thế hệ trước, học hết 11 năm tức là đã 17 tuổi, thanh niên đã có nhận thức xã hội tốt và có thể tham gia ngay thị trường lao động. Đây cũng là lứa tuổi tâm sinh lý phát triển cao hơn cùng lứa tuổi cách đây 20, 30 năm.
Có thể nói đây là những tiêu chí để xem xét giảm thời gian giáo dục phổ thông từ 12 năm xuống còn 11 năm. Có một thực tế là, trước đây các thế hệthanh niên học 11 năm, thậm chí thế hệ kháng chiến chỉ 10 năm nhưng vẫn hoàn thành nhiệm vụ học tập cao hơn, ra nước ngoài học tập vẫn cạnh tranh được với sinh viên ngoại quốc vàvẫn sản sinh ra rất nhiều giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ... giỏi.
Hơn nữa giảm được 1 năm học tập là tăng lợi ích kinh tế cho xã hội và cho gia đình, cá nhân. Từ những lý do trên đây tôi cho rằng, có thể tiến hành thiết lập cấu trúc hệ phổ thông 11 năm. Tôi chỉ băn khoăn một điều: hiện nay tình hình kinh tế nước ta đang rất khó khăn, con người và vật chấthuy động làm sao để có thể triến khai được là một vấn đề rất lớn.
Một số ý kiến cho rằng thực chất vấn đề nằm ở chỗ GD Việt Nam vẫn chưa làm tốt bài toán phân luồng, dẫn đến tình trạng "thừa thày, thiếu thợ", tiêu cực trong các hệ đào tạo do tâm lý sính bằng cấp. Ý kiến của GS về vấn đề này như thế nào?
Đúng là giáo dục Việt Nam vẫn chưa làm tốt bài toán phân luồng làm cho mất cân đối trong đào tạo nguồn nhân lực. Chính vì vậy cần tái cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân. Chúng ta nên nghiên cứu để tổ chức hệ thống giáo dục phổ thông 11 năm trong đó 9 năm phổ thông bắt buộc, là giáo dục miễn phí. Sau 9 năm phổ thông bắt buộc là phải phân luồng ngay. Một bộ phận học sinh vào học phổ thông công nghiệp hoặc học nghề. Một bộ phận học tiếp 2 năm trước khi vào học đại học.
Số sinh viên học đại học cũng phải thực hiện 70-80% sinh viên đào tạo theo chương trình nghề nghiệp ứng dụng, chỉ 20-30% đào tạo theo chương trình nghiên cứu (tỷ lệ này đã có trong HERA- Đề án đổi mới cơ bản và toàn diện GD ĐH VN giai đoạn 2006-2020). Cần rút ngắn thời gian đào tạo đại học. Cần thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục- đào tạo và giáo dục nghề. Hợp nhất cao đẳng nghề và cao đẳng, hợp nhất trung cấp nghề vàtrung cấp chuyên nghiệp. Đây là sự thay đổi rất cần thiết. Chúng ta nói "thừa thầy thiếu thợ" cũng chỉ là một cách nói thôi vì thực chất chúng ta đang thiếu cả thầy cả thợ nhưng cũng lại thừa cả thợ, cả thầy. Thiếu cả thầy giỏi, thầy đạt chuẩn và thiếu cả thợ giỏi, thợ lành nghề.
Nếu đào tạo chất lượng tốt, nhân lực có trình độ chuyên môn cao và kỹ năng thực hành giỏi thì không những sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng sẽ dễ dàng kiếm được việc làm ở các doanh nghiệp trong nước và liên doanh với nước ngoài mà còn tham gia được thị trường lao động quốc tế. Sinh viên lại còn có khả năng sáng tạo ra việc làm, làm phong phú sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng sản xuất, thu hút người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Thị trường sẽ tự điều tiết một cách lành mạnh.
Đào tạo và cấp bằng là hai việc song hành và là trách nhiệm thông thường của công tác đào tạo. Nhưng tâm lý sính bằng cấp là một sai lầm, là một hậu họa cho xã hội. Ngày xưa, ngay cả khi giáo dục chỉ dành cho số ít, còn gọi là giáo dục "tinh hoa" thì tâm lý sính bằng cấp cũng không có. Việc này là do cơ chế chính sách không hợp lý cần được cấp bách giải quyết, nhất là trong quản lý.
Mạnh Hải
Theo dân trí
"Tẩu hỏa nhập ma" vì học tiếng Anh quá sớm Nhiều người hiện nay có suy nghĩ "hy sinh đời bố, củng cố đời con", tức là cha mẹ đã thiệt thòi, thì cố "nhồi nhét" cho con cái nhưng thứ mình thiếu, như ngoại ngữ. Năm học tới, chị Ngọc và anh Tú (Cầu Giấy, Hà Nội) quyết định cho bé Bi (5 tuổi) vào học trường quốc tế. Vì muốn con...