Giáo dục Mường Lát vượt khó
Mường Lát là huyện vùng cao, biên giới của tỉnh Thanh Hóa. Vượt lên khó khăn, thiếu thốn, những năm qua học sinh, giáo viên nơi đây đã nỗ lực vượt khó, đưa sự nghiệp trồng người của huyện ngày càng khởi sắc.
Thầy và trò Trường Tiểu học Trung Lý 2 trong giờ dạy và học.
Gieo chữ ở những bản khó khăn
Không còn những lớp học tạm bằng tranh tre nứa lá, Trường Tiểu học Trung Lý 2 (xã Trung Lý) mặc dù có tới 6 điểm trường (điểm trường chính tại bản Cò Cài, 5 điểm lẻ tại Tà Cóm, Cá Giáng, Cánh Cộng, Pá Búa, Lìn) đều đã có đủ phòng học tương đối khang trang, với đầy đủ đồ dùng, trang thiết bị tối thiểu phục vụ cho việc dạy, học của giáo viên và học sinh.
Từ trung tâm xã Trung Lý vào bản Cò Cài hơn 20 cây số.
Thầy Nguyễn Tiến Hiệp, Hiệu Trưởng Trường Tiểu học Trung Lý 2 chia sẻ: Toàn trường có hơn 368 học sinh đều là con em đồng bào dân tộc thiểu số. Điểm trường chính có 3 lớp với 5 trình độ, 2 lớp ghép là lớp 1 và 2; 3 và 4 và lớp đơn là lớp 5. Vài năm trở lại đây, cơ sở vật chất của trường được đầu tư xây dựng nên khang trang, sạch đẹp. Giáo viên có khu nội trú khang trang.
Mặc dù có tới 5/6 bản chưa có điện lưới nhưng khu chính đã được các nhà hảo tâm tặng hệ thống điện năng lượng mặt trời độc lập có lưu trữ, sắp tới sẽ có thêm 3 khu nữa được lắp đặt hệ thống điện năng lượng mặt trời, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động giáo dục của nhà trường.
Đường vào bản Cò Cài vẫn còn nhiều khó khăn.
Thầy Nguyễn Tiếp Hiệp cho biết thêm: Năm học 2021-2022 trường có 291 em/368 em là con em hộ nghèo, đường sá, giao thông đi lại còn nhiều khó khăn. Một số em học sinh ở bản Mông, có bố hoặc cả bố và mẹ đều bị nghiện nên cuộc sống rất khó khăn, vất vả.
Tuy nhiên, điều đáng mừng là học sinh ở đây gần như lúc nào cũng đi học đầy đủ 100%, trừ những ngày mưa bão, đường sá đi lại khó khăn thì các em mới nghỉ học.
Do đó, dù thời gian học sinh phải nghỉ học do dịch bệnh COVID-19 kéo dài các em cũng như nhà trường không có đủ trang thiết bị, đồ dùng dạy học online, nhưng để đảm bảo tiến độ khung chương trình năm học, nhà trường đã tiến hành dạy tăng cường thêm 3 buổi chiều cho học sinh sau khi dịch bệnh được kiểm soát tốt hơn, do đó đến thời điểm hiện tại nhà trường đã cơ bản hoàn thành chương trình giảm tải theo quy định.
Video đang HOT
Trường Tiểu học Trung Lý 2 khu chính nằm ở bản Cò Cài.
Học sinh ở Cò Cài chủ yếu là đồng bào dân tộc Thái.
Không như nhiều năm trước, sau mỗi dịp nghỉ hè, nghỉ tết nguyên đán thầy cô giáo lại phải đến từng nhà vận động học sinh ra lớp. Hiện nay tình trạng học sinh bỏ học giữa chừng không còn nhiều, nhận thức của phụ huynh cũng đã thay đổi, nhiều phụ huynh đã chủ động đưa con em đến trường theo lịch học tập của nhà trường.
Để có được kết quả đáng mừng này là nhờ nỗ lực của các thầy, cô giáo, chính quyền địa phương trong việc vận động, tuyên truyền bà con dân bản, đưa con em tới trường học con chữ để có tương lai tốt đẹp hơn. Cùng với đó là những chính sách hỗ trợ học sinh dân tộc thiểu số thiết thực và hiệu quả của nhà nước, của tỉnh.
Nh ững nỗ lực vượt kh ó nâng ch ất lượng gi áo d ục
Xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát có 6 bản gồm các dân tộc Mông, Thái, Mường, Dao, Kinh sinh sống, trong đó dân tộc Mông chiếm 98% dân số. Trường THCS Nhi Sơn đóng trên địa bàn bản Chim, xã Nhi Sơn có 18 cán bộ, giáo viên, nhân viên, trong đó chủ yếu là các thầy cô giáo ở miền xuôi lên công tác, gắn bó với mảnh đất biên cương hàng chục năm nay. Họ cùng chung trăn trở làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục nơi miền biên viễn xa xôi này.
Trường THCS Nhi Sơn nằm trên địa bàn bản Chim, học sinh chủ yếu là đồng bào dân tộc Mông.
Là trường chuẩn Quốc gia, Trường THCS Nhi Sơn có trường lớp khang trang, khuôn viên sư phạm sạch đẹp, đồ dùng, trang thiết bị dạy học được trang bị tương đối đầy đủ, đáp ứng yêu cầu cơ bản cho việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới.
Thầy Lê Quang Đức, Phó Hiệu trưởng Trường THCS Nhi Sơn cho biết: Năm học này nhà trường có 219 học sinh, chủ yếu là đồng bào Mông. Nhà trường hiện có 65 em học sinh ở 2 bản Kéo Té và Lốc Há ở lại ký túc xá và được hưởng các chế độ chính sách theo Nghị định 116/2016/NĐ-CP của Chính phủ do nhà cách trường từ 6 – 8 km. Hàng tháng các em được hỗ trợ 596.000 đồng và 15 kg gạo.
“Đầu năm 2022 nhà trường đã làm tờ trình, đề án chuyển đổi thành Trường phổ thông dân tộc bán trú THCS Nhi Sơn. Thầy, trò nhà trường rất mong được chấp thuận để việc học tập của học sinh thuận lợi hơn”, thầy Lê Quang Đức nói.
Bữa ăn bán trú của học sinh Trường THCS Nhi Sơn.
Chia sẻ về những đổi mới của ngành giáo dục địa phương, ông Lò Văn Tuấn, Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Mường Lát cho biết: Với sự nỗ lực của toàn ngành trong việc quan tâm, tập trung nhiều giải pháp đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục, cùng những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, của tỉnh, những năm qua hệ thống cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các nhà trường đã được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, đáp ứng yêu cầu đổi mới Chương trình sách giáo khoa phổ thông năm 2018.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp giảng dạy được đội ngũ giáo viên quan tâm và thực hiện thường xuyên, 99% đội ngũ giáo viên từ Tiểu học đến THCS thực hiện soạn bài trên máy tính, 100% trường thực hiện phần mềm Vnedu. Công tác chăm lo, bồi dưỡng học sinh giỏi được quan tâm, đầu tư. Chất lượng giáo dục đại trà, mũi nhọn được nâng lên qua các năm; Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, học sinh lưu ban, bỏ học ngày càng giảm… Qua đó, tỷ lệ phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi đạt 100%, phổ cập giáo dục tiểu học, THCS ngày càng được duy trì bền vững.
Đây là tín hiệu đáng mừng, sự thay đổi đáng kể về chất lượng và số lượng cũng như nhận thức của phụ huynh, học sinh, là minh chứng cho sự “thay da, đổi thịt” của giáo dục vùng khó.
Tin tưởng rằng với sự nỗ lực, tích cực thay đổi tư duy của phụ huynh, học sinh, sự nỗ lực của toàn ngành, giáo dục Mường Lát sẽ ngày càng khởi sắc.
'Gieo chữ' ở vùng cao
Để mang con chữ đến với học trò vùng cao, những thầy cô giáo "cắm bản" phải vượt qua muôn vàn khó khăn, vất vả. Bằng niềm tin và trách nhiệm, các thầy, cô đã cống hiến cho sự nghiệp "trồng người", đưa "con đò tri thức" đến với học sinh vùng sâu, vùng xa.
Cô Lò Thị Hải và học trò.
Giáo dục ở miền biên viễn
Cô giáo Vi Thị Vinh, Hiệu trưởng Trường Mầm non Trung Thượng (huyện biên giới Quan Sơn, Thanh Hóa) cho biết, năm học 2021 - 2022 nhà trường có tổng số 166 học sinh/14 nhóm, lớp và 25 cán bộ giáo viên, nhân viên. Trường Mầm non Trung Thượng hiện nay có 3 điểm lẻ, nhà trường đã tổ chức nấu ăn bán trú cho trẻ tại các nhóm, lớp 150 trẻ/166 đạt 90,4%.
"Nếu 5 năm trước, nhà trường thiếu cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, nhân viên không đảm bảo theo định biên số trẻ, số lớp... thì trong những năm gần đây, được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo và sự nhìn nhận đúng mức của mọi tầng lớp nhân dân, các nhà hảo tâm, nay nhà trường đã có được ngôi trường mới khang trang hơn.
Các điểm lẻ cơ bản đủ về phòng học, trang thiết bị dạy và học đủ theo yêu cầu; đảm bảo đủ về số lượng đội ngũ giáo viên, chế độ chính sách nhà giáo tương đối ổn định. Tháng 11/2021 vừa qua, nhà trường vinh dự được công nhận đạt chuẩn quốc gia Mức độ 1, và đạt kiểm định chất lượng giáo dục Cấp độ 2", cô Vinh chia sẻ.
Những khó khăn, thách thức đối với cô giáo công tác ở vùng sâu, vùng xa, theo cô Vi Thị Vinh, đó là: Địa hình phức tạp, dân cư không tập trung, điều kiện kinh tế - xã hội thấp, mặt bằng dân số nghèo và cận nghèo vẫn duy trì tỷ lệ nhất định; việc kêu gọi xã hội hóa giáo dục cá nhân, tổ chức xã hội hóa để phát triển giáo dục gặp nhiều khó khăn...
Các phòng học điểm lẻ còn phòng lắp ghép, phòng cấp 4 xuống cấp trầm trọng; trang thiết bị còn nhiều thiếu thốn, việc tiếp cận công nghệ thông tin còn hạn chế (vì chưa phủ sóng hết)...
Cô Vi Thị Vinh hướng dẫn học sinh tập chơi đánh chiêng.
Cũng theo cô Vinh, để truyền cảm hứng cho học sinh, tập thể cán bộ, giáo viên trong trường luôn thay đổi phương pháp giảng dạy. Bên cạnh đó, nhà trường luôn tạo cảnh quan môi trường trong và ngoài lớp học "xanh - an toàn - thân thiện" nhằm năng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ và ngày càng thu hút trẻ đến trường nhiều hơn.
Với cương vị của một Hiệu trưởng trường mầm non ở vùng biên giới giáp với nước bạn Lào, cô Vinh luôn trăn trở làm thế nào để đổi mới công tác nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn.
Gắn bó với Tìa Dình
Nếu cô Vi Thị Vinh đã có hơn 20 năm gắn bó với sự nghiệp "trồng người" tại ngôi trường Mầm non Trung Thượng thì cô Lò Thị Hải cũng có gần 10 năm giảng dạy ở huyện Điện Biên Đông (tỉnh Điện Biên). Mà toàn là các điểm bản xa xôi. Năm học này cô dạy ở Trường Mầm non Tìa Dình. Tìa Dình là xã vùng cao đặc biệt khó khăn của huyện Điện Biên Đông.
Ở đây, đời sống bà con chủ yếu vẫn phụ thuộc vào làm nương. Trường hiện có 1 điểm trung tâm và 6 điểm bản. Ngoại trừ 1 điểm bản cách trung tâm 3 km, còn lại các điểm khác đều không có điện lưới quốc gia, không sóng điện thoại, khó khăn về nước sạch. Vì thế công việc của giáo viên, nhất là giáo viên mầm non cũng ảnh hưởng nhiều.
Cô Hải chia sẻ: Khó khăn nhất phải kể đến ở đây là giao thông. Ngoài một số đoạn rất ngắn được trải bê tông, thì còn lại đều là đường đất, đèo dốc hiểm trở. Mùa mưa đi lại vô vùng vất vả, việc ngã xe, bị thương xảy ra như cơm bữa.
Cùng với việc giảng dạy, hàng ngày cô Hải phải thay cha mẹ chăm sóc học sinh.
Theo cô Hải, vết sẹo trên mặt cô là hậu quả của tai nạn trong lần đầu tiên đến nhận phụ trách tại điểm bản Na Xu, đây là bản xa và đường đi rất khó khăn. "Hôm ấy tôi đi một mình và đúng vào ngày mưa, đường rất trơn. Tôi mất nhiều giờ, vừa đi vừa dắt, đến con dốc cách điểm bản chừng 2km thì xe bỗng dưng mất phanh lao thẳng xuống vực. Tôi bất tỉnh chừng 20 phút, lúc tỉnh dậy chỉ thấy máu chảy xuống từ mặt, xe hỏng hết. Cố gắng bò lên, rồi đi bộ về điểm bản, nhờ dân giúp", cô Hải nhớ lại.
Nói về sự thay đổi của giáo dục vùng cao, cô Lò Thị Hải cho biết: Những năm gần đây giáo dục miền núi, mà cụ thể nhất là ở Tìa Dình đã thay đổi rất nhiều. Trước kia các điểm bản đa phần là nhà tranh tre, nứa lá, tốt hơn thì nhà gỗ tạm bợ, không đảm bảo điều kiện học tập cho các con. Nhưng giờ được đầu tư xây dựng.
Ở các điểm bản, trước kia giáo viên ngày nào cũng phải 2 lượt đi hứng và xách nước từ các mó về trường phục vụ sinh hoạt của cô và trò, vất vả lắm. Nhưng giờ đường ống dẫn nước về tận nơi nên cơ bản cũng đảm bảo đủ dùng.
"Đặc biệt là chế độ ăn trưa cho các con thay đổi liên tục. Từ ngày tổ chức nấu ăn trưa, các con đi học chuyên cần và phát triển về thể chất hơn hẳn", cô Hải cho biết thêm.
Năm học này, cô Hải cùng 3 giáo viên khác phụ trách tại điểm Tào La. Đây gần như là điểm cao nhất trong xã. Một ngày ở đây chỉ có khoảng 2 giờ là nhìn thấy mặt trời, còn lại thời tiết âm u, mù sương và rét. Đồng hành với học sinh ở Tìa Dình, cô Hải nói, không mong mỏi gì hơn ngoài việc các em được học tập.
"Vì chỉ có con đường đó mới giúp các em thay đổi chính cuộc sống của mình, sau đó mới kỳ vọng thay đổi được quê hương".
Từ ngày 12.4, học sinh các cấp ở TP.HCM sẽ đi học trực tiếp UBND TP.HCM vừa có thông báo khẩn gửi các Sở, ban, ngành, UBND các quận, huyện và TP Thủ Đức về việc tiếp tục tổ chức dạy học trực tiếp tại các cơ sở giáo dục trên địa bàn từ ngày 12.4. Theo đó, UBND TP.HCM yêu cầu các Sở, ban, ngành, các quận, huyện và TP Thủ Đức tổ chức chăm sóc,...